Thơ

Về Hầm Hô

Mai em theo anh về Hầm Hô
Ngược Côn Giang nghiêng chiều Bình Định
Đất vua áo vải cờ đào nông dân thành lính
Mấy trăm năm ngựa hý voi gầm

Người qua tháng Chạp

Ngồi buồn nhớ Tết ta xưa
Người qua tháng Chạp nắng mưa ngập ngừng…
Ngõ hoa chú bé trông chừng
Xênh xang áo mới tưng bừng Tết vui

Tự tình Giêng hai

Tôi ngồi đợi
trong ngôi nhà lá mái
luồng nắng mai xuyên ngang khung cửa sổ
hừng hừng

Mùa xuân trên đồi cát

Nàng ôm chặt bóng mình trong những đêm gió lạnh
Cát xát muối bầu trời
Nỗi cô đơn tỏa hương
Từ những cánh hoa chập chờn trong thinh tối

Thơ dự thi của Lý Thành Long

Nhớ thương nào từ phía ngọn Nồm khơi
môi má đầu nguồn ngả vào lòng xanh tận bể
duyên xà hai giọt phù sa thắm đỏ
đồng bãi phồn sinh

Mùa đông của tôi

Bay qua chiều vắng
Người là nắng mùa đông
Là góc phố là mái ngói là những chiếc lá biết tạm biệt lá cành cành lá 
Hãy rơi như ta chẳng có gì níu giữ 
Lấp đầy những con phố 

Tìm chiếc smartphone

Ngày ba mươi
Khi chiếc smartphone rơi
Ngôi nhà trống vắng
Những thành viên loay hoay tìm nhau
Chạm vào đâu thấy từng gương mặt
Chạm vào đâu nghe tiếng sum vầy

Thơ dự thi của Nguyễn Hoàng Hoa

Nắng gió Trường Sa hun đúc da đồng
Biển mặn Trường Sa đậm đà giọng nói
Lính trẻ Hải quân cười tươi rói
Đón khách đất liền ra thăm đảo xa

Thơ dự thi của Thái An Khánh

Ta thấy dòng trầm tích ngàn năm cựa quậy
Tuổi đôi mươi nhựa sống vút trào
Núi đồi trôi cùng trăng ra biển
Bờ eo nào neo giấc mơ thơm.

Thơ dự thi của Nhiên Đăng

Trên độ cao 1.000 mét,
Người Bana cúng con nước, tạ ơn thiên nhiên 
Đốt lửa uống rượu cần làm phép
Dòng suối lạnh, đêm tràn xuống hơi thở bầu trời 

Thơ dự thi của Lê Văn Hiếu

Ta lăn lóc đứng ngồi
Ta lên rừng xuống bể
Nay ta chín – ta vẫn là hạt gạo
Vẫn đăm đắm cánh đồng chiều
Vẫn thương câu hát gánh qua sông…

Thơ dự thi của Thái An Khánh

An Nhơn ẩn vào ta bằng ngôn ngữ của lúa
đôi vai của mẹ gánh trĩu mặt trời
lấm tấm mồ hôi mặn mòi non nước
đất nặng nghĩa tình gieo hạt trái tim ai.

Về Hầm Hô

Mai em theo anh về Hầm Hô
Ngược Côn Giang nghiêng chiều Bình Định
Đất vua áo vải cờ đào nông dân thành lính
Mấy trăm năm ngựa hý voi gầm

Người qua tháng Chạp

Ngồi buồn nhớ Tết ta xưa
Người qua tháng Chạp nắng mưa ngập ngừng…
Ngõ hoa chú bé trông chừng
Xênh xang áo mới tưng bừng Tết vui

Tự tình Giêng hai

Tôi ngồi đợi
trong ngôi nhà lá mái
luồng nắng mai xuyên ngang khung cửa sổ
hừng hừng

Mùa xuân trên đồi cát

Nàng ôm chặt bóng mình trong những đêm gió lạnh
Cát xát muối bầu trời
Nỗi cô đơn tỏa hương
Từ những cánh hoa chập chờn trong thinh tối

Thơ dự thi của Lý Thành Long

Nhớ thương nào từ phía ngọn Nồm khơi
môi má đầu nguồn ngả vào lòng xanh tận bể
duyên xà hai giọt phù sa thắm đỏ
đồng bãi phồn sinh

Mùa đông của tôi

Bay qua chiều vắng
Người là nắng mùa đông
Là góc phố là mái ngói là những chiếc lá biết tạm biệt lá cành cành lá 
Hãy rơi như ta chẳng có gì níu giữ 
Lấp đầy những con phố 

Tìm chiếc smartphone

Ngày ba mươi
Khi chiếc smartphone rơi
Ngôi nhà trống vắng
Những thành viên loay hoay tìm nhau
Chạm vào đâu thấy từng gương mặt
Chạm vào đâu nghe tiếng sum vầy

Thơ dự thi của Nguyễn Hoàng Hoa

Nắng gió Trường Sa hun đúc da đồng
Biển mặn Trường Sa đậm đà giọng nói
Lính trẻ Hải quân cười tươi rói
Đón khách đất liền ra thăm đảo xa

Thơ dự thi của Thái An Khánh

Ta thấy dòng trầm tích ngàn năm cựa quậy
Tuổi đôi mươi nhựa sống vút trào
Núi đồi trôi cùng trăng ra biển
Bờ eo nào neo giấc mơ thơm.

Thơ dự thi của Nhiên Đăng

Trên độ cao 1.000 mét,
Người Bana cúng con nước, tạ ơn thiên nhiên 
Đốt lửa uống rượu cần làm phép
Dòng suối lạnh, đêm tràn xuống hơi thở bầu trời 

Thơ dự thi của Lê Văn Hiếu

Ta lăn lóc đứng ngồi
Ta lên rừng xuống bể
Nay ta chín – ta vẫn là hạt gạo
Vẫn đăm đắm cánh đồng chiều
Vẫn thương câu hát gánh qua sông…

Thơ dự thi của Thái An Khánh

An Nhơn ẩn vào ta bằng ngôn ngữ của lúa
đôi vai của mẹ gánh trĩu mặt trời
lấm tấm mồ hôi mặn mòi non nước
đất nặng nghĩa tình gieo hạt trái tim ai.