Tôi viết trường ca “Người khiêng võng”

(VNBĐ – Nghiên cứu & phê bình). Viết ra được một tác phẩm, nhiều khi là một cái duyên. Nhiều khi, do may mắn. Nhiều khi, nhận được sự phù hộ. Trong đó, yếu tố “được phù hộ” có thể là quan trọng nhất. Tôi có cảm giác, khi từ trong tâm tưởng xác quyết mình là người hữu thần, thì những tác phẩm của tôi viết ra thường rất nhanh, nhiều lúc như xuất thần. Không có sự phù hộ, thật khó để một người bình thường như tôi có thể hoàn thành những tác phẩm dài hơi như trường ca trong một thời gian ngắn đến vậy.

Đó cũng là trường hợp khi tôi viết trường ca Người khiêng võng(1).

Tôi có may mắn được dự hai cuộc hội thảo về Lê Đại Cang, một cuộc ở Quy Nhơn (Bình Định), một cuộc ở Châu Đốc (An Giang). Trong lần dự hội thảo thứ hai ở Châu Đốc, tôi được đi viếng đền thờ Bà Chúa Xứ. Đó là Bà Chúa linh thiêng của lưu dân Nam bộ, mà tôi thì từ rất lâu rồi đã tự xếp mình vào hàng ngũ những lưu dân ở miền sông nước phương Nam này. Tôi đã có nhiều dịp về chơi Tuy Phước (Bình Định), và cảm nhận thiên nhiên ở đây không chỉ đẹp mà còn được văn hóa phủ sóng, từ văn hóa Chàm tới văn hóa Việt, từ những tháp Chàm tới những đình chùa miếu mạo làm nên sự giao hòa giữa văn hóa Việt và văn hóa Chàm. Nơi ấy sinh ra những con người đặc biệt như Lê Đại Cang cũng là chuyện bình thường.

Tuy Phước là một cái nôi của nghệ thuật Tuồng Bình Định, quê hương của Đào Tấn vĩ đại. Có một đặc chất của Tuồng mà tôi cảm nhận được, là Tuồng biểu dương, ngưỡng mộ những con người nghĩa khí, ca ngợi đức hy sinh và tinh thần chịu đựng, vượt qua nghịch cảnh vì nghĩa lớn. Lê Đại Cang là một người chịu đựng lịch sử, là người khát khao thay đổi và dám làm dám chịu. Ông ra Bắc vào Nam, lúc chỉ huy đánh giặc, lúc đắp đê ngăn lũ, khi đào kênh thủy lợi và giao thông, lúc âm thầm… khiêng võng:

tôi sinh ra làm người khiêng/ trách nhiệm/ làm người khiêng/ số phận/
làm người khiêng/ lo lắng/ làm người khiêng/ cay đắng.

Đó là người ý thức rằng mình đang “khiêng” một sứ mệnh.

Nhưng nói ta đang “khiêng” một sứ mệnh có vẻ dễ chịu và oai hơn khi nói ta phải trực tiếp võng cho người có thể vốn là quan chức cấp thấp dưới quyền mình. Lê Đại Cang chấp nhận cả sự thật đó:

những bước chân không lấn bấn
đòn khiêng nghiến trên vai
những giọt mồ hôi lắng
rơi thấm con đường dài.

Đâu chỉ một lần bị giáng cấp phải làm lính khiêng võng, nhưng Lê Đại Cang không hề nản lòng. Dù sự đày ải này thách thức ghê gớm khả năng chịu đựng của một con người, nhất là khi người ấy đã là một vị quan cỡ đại thần. Đó là điều khiến tôi kính phục nhất ở Lê Đại Cang, trước cả những chiến tích cũng như những công tích của ông.

Ra đi từ Huế, rồi từ làng quê Tuy Phước, trong những bước thăng trầm của cuộc đời, Lê Đại Cang luôn nhớ về cha mẹ mình, về chốn làng quê Bình Định thương yêu của mình, như bất cứ một đứa con bình thường nào:

mẹ ơi/ làng quê mình tuy mang tên Tuy Phước/ nhưng mỗi mùa đều lũ lụt/ buổi chiều mẹ nghe bìm bịp kêu/ hun hút/ nhớ đứa con lận đận cuối chân trời/ đời làm quan khác chi ngồi trên lửa/ biết đâu là may rủi mẹ ơi.

Câu hát “khiêng võng cho quan, à la, khiêng võng cho quan” lặp lại tới mấy lần trong trường ca này, như một hài hước cay đắng, và như sự chấp nhận. Nói “à la”, chẳng có nghĩa gì cả, nhưng cũng có nghĩa là “ô kê” như bây giờ chúng ta hay nói. Khiêng võng cho quan, ô kê, thì khiêng võng cho quan. Có hai đoạn thơ trong trường ca mà tôi cảm thấy thấm thía, đó là hai đoạn hồi tưởng của Lê Đại Cang về quê nhà Tuy Phước và về xứ Huế, nơi gia đình ông đã sống nhiều năm, nơi ông sinh ra lớn lên rồi được học hành.

Đây là cảm xúc khi Lê Đại Cang nhớ về xứ Huế, quê hương thứ hai của ông, nơi ông sinh ra:

cánh diều xanh trên núi Ngự Bình
bay nghiêng nghiêng dọc sông Hương
phải nơi này tôi sinh
mập mờ mây khói
mẹ ơi đâu là nơi cắt rốn chôn nhau
cha mẹ vốn làng quê Tuy Phước
lại đẻ con cuối dòng Hương lặng nước
với con, Huế chợt quê nhà.

Nhà văn Nguyễn Thế Khoa, một hậu duệ phía ngoại của Lê Đại Cang, khi đặt hàng tôi viết trường ca Người khiêng võng đã nhớ ra ngay, tôi có 5 năm ở chiến trường Nam bộ, và 10 năm ở Quy Nhơn. Có một điều anh Khoa quên, hoặc chưa nhớ ra, tôi là con rể xứ Huế. Từ mấy chục năm nay, Huế đã trở nên thân thiết với tôi, vì mỗi năm tôi đều nhiều lần ra Huế, dù thời ở Quy Nhơn hay thời đã về Quảng Ngãi. Huế là quê ngoại của các con tôi, nơi đứa con trai đầu lòng của tôi được sinh ra. Mỗi vùng đất mà mình thân thiết đều để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn mình, và đó là cơ sở cho những tác phẩm.

Dù cha mẹ đều quê Tuy Phước, nhưng Huế mới là nơi sinh Lê Đại Cang. Ông gắn bó với kinh đô này là phải. Những hồi ức của Lê Đại Cang là những ám ảnh của một người chinh chiến, một người đắp đê, một người lang thang, một người cơ nhỡ chất chứa bao vui buồn của phận người. Đó là một con người đặc biệt với một số phận đặc biệt.

 Khi viết xong dòng cuối trường ca này, tôi có cảm giác đúng như cảm giác của Lê Đại Cang khi hạ võng: ông quan lớn hay nhỏ gì đó bước ra, và tất cả như trút được một gánh nặng. Chỉ có điều, với Lê Đại Cang là gánh nặng của trách nhiệm, của bổn phận hay của gì đó nữa, còn gánh nặng của tôi chỉ là gánh nặng nghĩa tình. Nhiều khi, đó không hề là gánh nặng.

Người khiêng võng

(Trích đoạn cuối trường ca)

THANH THẢO

… người khiêng võng qua bưng sình ngập nước
đi trong đêm càng khó bám mặt đường
người khiêng võng khát nhiều khi cháy cổ
gắng đều chân không để ai thương

tôi là vậy suốt đời tôi là vậy
nằm võng lo hơn khiêng võng thật mà
chức càng cao đêm trằn trọc mãi
pha ấm trà ngồi tựa cửa ngó ra

ước là mây khiêng mặt trời qua ngọ
mặt trời lăn trên mặt nước rỡ ràng
bông điên điển mắt vàng chớp chớp
bầy cá gì đập cánh giữa không trung

giấc mơ nhỏ đưa tôi vào cửa lớn
cha mẹ đi lững thững cuối chân trời
người gọi gió cho cây, mây cho nước
bỗng tối sầm tiếng ai nói chơi vơi

đừng khuấy động núi Sam chìm mây phủ
thầy vẽ bùa con vẹt già lụ khụ
tôi đi xin lá thuốc ngược thời gian
trở về tuổi thơ cánh diều mơ ngủ

cánh diều xanh trên núi Ngự Bình
bay nghiêng nghiêng dọc sông Hương
phải nơi này tôi sinh
mập mờ mây khói

mẹ ơi đâu là nơi cắt rốn chôn rau
cha mẹ vốn làng quê Tuy Phước
lại đẻ con cuối dòng Hương lặng nước
với con, Huế chợt quê nhà

Huế bánh bèo bánh nậm bánh đa
Huế cơm hến mà canh cũng hến
hoa mộc thơm lên chùa Phật hiện
dòng Hương vang tiếng gõ mạn thuyền

một người tựa cửa Hiển Nhơn thổi sáo
một người đi không biết về đâu
chiều Ngọ Môn mây vàng lấp lối
tôi tìm cây ríu rít chim sâu

sao mà thèm bánh bèo Đập Đá
thương miên man cháo bò Đại Nội
về Thủy Dương ăn cá lóc bánh canh
dáng Huế như cô gái nhà lành

tuổi thơ tôi ở tầng sâu quên nhớ
ngựa nào dừng chân dưới bóng ngô đồng
đôi lúc ngồi tập đọc dòng sông
thuộc từng con cá hanh bống thệ

nhiều năm sau tôi trở về quê mẹ
nghe ngọt lành câu hát đẩy đưa:
“muốn ăn bánh ít lá gai
lấy chồng Bình Định cho dài đường đi”

thuyền ngược lên Gò Bồi, Phước Hiệp
ngọn Tháp cổ nhìn tôi ngơ ngác
giọng ấm trầm như chú bác ở quê
“sao giờ con mới về?”

dạ, con như người cơ nhỡ
quê nơi này lại đẻ nơi kia
số con cực sau này không yên chỗ
mùi ổi đào dẫn lối đêm khuya

cây ổi lão ở làng Luật Chánh
chìa cành trĩu quả đón tôi
như bàn tay mẹ xoa lên tóc
mùi thơm vướng vất rất sâu

“xưa nay chinh chiến mấy ai về”(2)
nhưng con thở trước nhà mình rồi mẹ
rào chè xanh ba gian lá mái
bình dị như một câu Đường thi

bao tâm sự rối bời hơn tóc bạc
bìm bịp kêu nơi bến đá bờ tre
con chim thương phận người lưu lạc
còn ta thương đồng ngập nước mỏi mê

bìm bịp ơi xin nhận ta là bạn
cả đời khắc khoải với dân quê
ta xa xứ lòng luôn cố xứ
trong giấc mơ thường thấy ngày về

bìm bịp kêu nhịp đôi
dân Việt mình cơ khổ
mấy trăm năm đều đặn tha hương
nay xe đò còn xưa đi bộ

“Và những huân chương – không cần
Không cần lăng xăng huênh hoang
Với nhà thơ chúng ta – phần thưởng
Chính là số phận mình”(3)

có nhà thơ đã viết
nói giùm tôi nỗi lòng
dù trăm năm cách biệt
và vạn dặm xa xăm

thơ giăng mắc khắp trên trái đất
nhà thơ như con nhện giăng mùng
chúng ta nhận ra nhau tức khắc
dẫu đường biên mãi mãi mông lung

suốt đời Cang thầm lặng làm thơ
qua chiến chinh bản thảo rồi thất lạc
nhưng tôi đọc rất nhiều nhà thơ khác
những nhà thơ cuối đất cùng trời

đi với tôi
những câu thơ nhiều phen vấp ngã
đứng dậy tới những ai cần nó
như bàn tay mong tìm gặp bàn tay

đi với tôi
có nhiều ban mai mệt lả
ngỡ không thể gượng lên được nữa
bỗng định thần lại tiếp tục đi

nếu bạn hỏi tôi có bí quyết gì
ngay trong giờ đen tối nhất
vì sao không ngã gục
bạn hãy nhìn cái đòn khiêng

nó như tại và tôi như tại
cùng người khiêng thứ hai
ba số phận gắn liền
chúng tôi ghé vai nâng vật nặng
chính khi bị đè là khi ta vụt lên

không vội vã không hề than khóc
việc nhỏ làm tròn chuyện lớn mới xong
học nhẫn nhịn để thành người chính trực
đi tới cùng tất sẽ gặp thành công

“yêu Tổ quốc là một điều nghiêm trọng”(4)
xin giữ điều nghiêm trọng ấy suốt đời mình.
Châu Đốc – Quảng Ngãi tháng Vu Lan 2016

THANH THẢO
(1). Người khiêng võng, trường ca của Thanh Thảo – NXB Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2016.
(2). Thơ Vương Hàn: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
(3). Thơ của một nhà thơ Nga Xô viết.
(4). Câu thơ của một nhà thơ Tây Ban Nha chống phát xít Franco.

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thơ, hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi   

Tập thơ “Tiếng của thiên lương” của Mai Thìn lôi cuốn người đọc bởi một lối viết coi ý tứ là trọng, coi tổng thể nặng hơn chi tiết và rất nặng lòng trước thế thái nhân tình…

Phê bình văn học trong “Dạo gót vườn văn”

“Dạo gót vườn văn” với 83 bài viết, bàn về nhiều thể loại thuộc lý luận – phê bình, chân dung nhà văn, chuyện làng văn nghệ, phê bình sách, bình thơ, bình luận về văn xuôi, ngôn ngữ…

Đời cần lắm, những vần thơ

Sang đến thế kỷ hai mươi, Yến Lan, chỉ mới mười sáu, mười bảy tuổi thôi, đã hóa mình thành ông lái đò với bao niềm tâm sự trong bài thơ mang mang phong vị cổ, Bến My Lăng.