Nước mắt thời hậu chiến

(VNBĐ – Đọc sách). Có thể  nói, lịch sử dân tộc Việt Nam chính là lịch sử chống ngoại xâm, bởi gần như trong suốt quá trình hình thành và phát triển cộng đồng dân tộc, chúng ta thường xuyên bị ngoại bang nhòm ngó, thôn tính. Chiến tranh là hy sinh, mất mát: mẹ mất con; vợ mất chồng; con mất cha; họ tộc, láng giềng mất đi người thân. Sự mất mát ấy không bao giờ nguôi ngoai trong lòng người ở lại, như Plato đã khái quát: “Chỉ người chết mới thấy chiến tranh chấm dứt”. Bởi vậy, người cầm bút chân chính thời hậu chiến không thể lãng quên quá khứ đau thương mà dân tộc mình đã trải chịu.

Đọc tập thơ Tạ lỗi với mây xanh (NXB HNV, 2024) của Mai Thìn, có thể thấy, những bài thơ hay nhất đều nói về chiến tranh, đọng lại nỗi buồn, thành dòng nước mắt người ở lại thời hậu chiến.

Có ba đối tượng chính phải trải chịu nỗi đau chiến tranh trong tập thơ. Đối tượng thứ nhất là người phụ nữ. Lâu nay, chúng ta nghe nhiều về nỗi đau của những người mẹ, người vợ liệt sĩ, nhưng nỗi đau, nỗi buồn của những người phụ nữ có chồng ở phía bên kia chết trận thì ít. Câu hờn trách của người vợ có chồng chết trận trong bài thơ Không mồ đã nhân lên hai lần nỗi đau, khi mất rồi mà không tìm được hài cốt: giỗ ông lần nào má tôi cũng khóc/ vừa thương ba/ vừa trách/ sao không để lại một nấm mồ/ làm chỗ/ cho cỏ lên (Không mồ). Giỗ chạp, chăm sóc mộ phần là tín ngưỡng của người Việt, nhưng ẩn sâu trong trái tim người vợ đâu chỉ là niềm thương, nỗi nhớ theo lẽ thông thường. Chỉ với ba câu thơ ngắn, tác giả đã khắc họa được nỗi buồn khổ của những người thân có chồng chết trận: sao không để lại một nấm mồ/ làm chỗ/ cho cỏ lên. Cỏ ở đây không chỉ hiểu theo nghĩa đen, mà còn là biểu tượng của sự sống, sự sinh sôi, phát triển.

Và ở bài thơ Má tôi và những tiếng chuông là nỗi đau của người mẹ có hai con trai thuộc hai chiến tuyến, trong đó một người là tử sĩ, một người là liệt sĩ, và đều không tìm được hài cốt. Cả hai cùng nỗi đau đứt ruột sinh ra của mẹ, cùng tình yêu thương khôn cùng của mẹ. Ngày hòa bình/ cờ hoa tở mở, họ cùng theo tiếng chuông nguyện cầu của mẹ mà tìm về, chứng giám việc làm thường nhật, suốt quãng đời còn lại của mẹ: bà nội ăn chay trường/ tiếng chuông cầu nguyện/…/gióng lên/ những giọt cầm hơi/ những giọt cầm canh… (Má tôi và những tiếng chuông).

Chiến tranh gây nên chết chóc – hy sinh – mất mát – đau thương… Còn hơn thế nữa, nơi mảnh đất chôn rau cắt rốn vốn yên bình, giờ: máu chảy thành sông/ bao nhiêu người/ mấy mươi năm không tìm được đường về/…/ nửa thế kỷ qua/ đến mùng mười tháng ba/ cả nước vọng vua Hùng/ nhà tôi/ một ngày giỗ chung (Giỗ chung). Tuy thế, người phụ nữ đi qua chiến tranh vẫn không nguôi hy vọng ngày đoàn viên với chồng, với con. Và chờ đợi, dù trong vô vọng: Mẹ ngồi đó/ chờ chuyến tàu/ không bao giờ có/ chuyến tàu đã chở những người thân của mẹ/ làm/ cuộc chia ly/…/ mẹ vẫn ngồi chờ/ từ khi chân trời/ bày cuộc chia ly// bóng mẹ ngồi/ dõi kín/ lối thiên di (Chuyến tàu không bao giờ có). Bóng mẹ ngồi đã thành bóng của vọng phu thời hiện đại. Những câu chuyện ấy gợi lên cho người đọc niềm thương cảm xót xa vì đó là những chuyện đời rất thật, được diễn đạt theo cách kể, cách nhìn độc đáo, đậm chất dân dã, thuộc đặc tính tâm lý phụ nữ Việt Nam. Và không chỉ những người phụ nữ Việt, mà tất cả những bà mẹ trên thế giới đều là người chịu nhiều đau khổ do chiến tranh. Bài thơ Những quả bom chứa đầy nước mắt nằm ở cuối tập nói rõ điều đó: …những bà mẹ già/ người Ucraina/ người Nga/ người Mỹ/ đến đây/ ôm đứa con mình/ mà khóc// trong bảo tàng chiến tranh/ những quả bom/ chứa đầy nước mắt.

Còn một đối tượng nữa, làm day dứt người đọc là những em bé, những phận đời mong manh được thể hiện ở các bài thơ: Thế giới này một nửa, Tiếng vọng đầu, Những ngôi mộ thủy tinh trong suốt, Bài thơ buồn cho một tình yêu, Đau chữ…. Bài thơ Những ngôi mộ thủy tinh trong suốt có những câu thơ như tiếng chuông cảnh báo tội ác của chiến tranh: bàn chân nhỏ/ có em còn một ngón/ những ngón kia/ ác quỷ gặm hết rồi/…/bao ngày tháng /triệu triệu người đến viếng/ tự thắp cho mình/ niềm kinh hãi xót xa. Nỗi đau da cam/ dioxin còn hiện hữu trong một bộ phận người Việt Nam, tựa bóng ma vất vưởng, dù chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ. Cho nên, hình ảnh: những đứa con/ vì sao không chịu lớn/ những vành môi/ vì sao không biết cười/ đám mây nào che phủ mắt con… (Bài thơ buồn cho một tình yêu) là kết quả của những mối tình bền chặt, đợi chờ nhau cùng đi qua chiến tranh dẫu thân thể không còn nguyên vẹn, nó ám ảnh người đọc về tình yêu và thù hận: Đất – Trời đã có tình yêu/ sao/ còn sinh ra thù hận. Bài thơ phơi bày bộ mặt ghê tởm của chiến tranh mà nhân dân ta phải gánh chịu.

Ngoài những bài thơ về nỗi đau của phụ nữ, của trẻ em thời hậu chiến. Tập thơ Tạ lỗi với mây xanh dành phần nhiều cho những người lính đi qua chiến tranh: Giấc mơ hoa ban trắng, Tạ lỗi với mây xanh, Con mắt long lanh, Người mài dao trên phố, Kỷ vật của nhà văn, Khùng cuộc đời mình mà sống, Cơn mưa không có nước…

Bài thơ Kỷ vật của nhà văn là một phát hiện rất lạ về tình đồng đội cùng đi qua chiến tranh, khát cháy mong ước hòa bình, cùng dựng xây đất nước. Người còn sống đã sống cùng kỷ vật của đồng đội – bổ sung hoàn chỉnh thêm bức chân dung người lính cách mạng, kiên trung – nghĩa tình: kìa cái bình toong/ trong cuốn sách về cuộc chiến/ chủ của nó đã chết ở trang chín hai/ miểng pháo khô một ngày trên lưng bạn// cái bình/ bỏng rát từng cuống họng/ vét cạn những dòng sông/ đựng đầy ký ức// đêm đêm thao thức/ rót tràn trang văn/ những con chữ/ thẳng hàng/ tiếp cuộc hành quân (Kỷ vật của nhà văn). Tình yêu lứa đôi, anh em, gia đình đi qua chiến tranh đâu dễ tròn câu ước hẹn, dẫu: bao lần về làng tìm em/ địch ràng/ không xuống được/…/ em lên cứ tìm anh/ để lại lá thư và chiếc áo len/ sợi nhớ sợi mong đoàn tụ. Cuộc chia tay cũng là chia ly, đau buồn không tả xiết: nay anh về/ đồng làng đầy máu/ bên gốc trâm xưa/ nấm đất em nằm/ ướt đỏ/ máu của em tôi (Tìm em).

Dẫu chiến tranh đã đi qua, nhưng đề tài viết về chiến tranh vẫn có sức sống, được nhiều người quan tâm và ghi nhận. Đó là một sự thực chắc chắn, luôn có sức động viên cổ vũ lớn những ngòi bút tâm huyết với đất nước, dân tộc. Với đề tài này, nhà thơ Mai Thìn đã viết bằng “giọt máu nóng trái tim mình”.

NGUYỄN ĐÌNH PHÊ

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Âm nhạc Bình Định, 50 năm ngân vang khúc hát

Hiện nay, Chi hội Âm nhạc tỉnh Bình Định có số lượng hội viên gần 60 người, trong đó có 16 người sinh hoạt ở Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam. Lực lượng này đang tiếp tục sự nghiệp âm nhạc…

Thắp câu thơ từ nỗi âm thầm

“Cháy một mùa lặng lẽ” là tập thơ mới nhất của nhà thơ Ngô Văn Cư với 99 bài thơ được viết theo thể nghiệm mới với thể thơ 1-2-3, tập thơ là một hành trình giàu cảm xúc…