Nghi lễ ánh trăng

(VNBĐ – Truyện ngắn dự thi). Những trang báo rầm rộ đưa tin về vụ cháy cửa hàng đồ gỗ vào buổi lưng lửng tối, ven con đường giáp dòng sông lạc loài chảy qua thành phố bụi. Ơn trời không có thiệt hại nào về người. Cậu nhân viên ở lại cuối cùng đã đóng chặt tất cả các cánh cửa rồi vội vã rời đi trước đó vì cuộc hẹn đường đột. Dường như chẳng có mảy may một điềm báo hay trực giác nào về những ngọn lửa, để một mắt xích nào đó bị vuột ra khỏi chuỗi sự việc và vụ cháy sẽ không xảy ra. Chẳng ai ngờ rằng lửa đã vùng lên hệt một đội quân cưỡi bầy gió sông hối hả ra trận, chiếm trọn lãnh địa của những bức tượng gỗ la liệt lớp lớp tầng tầng. Chúng cuối cùng cũng bị khuất phục lúc sắp sửa chạm mặt ngày mới, sau khi đã tham lam hóa tro tất cả hiện hữu trong cơn cuồng bạo.

Đó là cửa hàng đồ gỗ mà ngày nào trên đường về từ bảo tàng anh cũng ngang qua. Để chống lại cơn nhàm chán suốt chặng dài ròng rã từ cái rốn của thành phố về một vùng ven từ lâu ngỡ bị lãng quên, ở đoạn đường bờ sông này anh chọn cách đếm những cửa hàng đồ gỗ. Nhưng lần nào về tới nhà, mở cánh cửa và gập đầu đi qua nó, anh cũng quên bẵng hôm nay đếm được tất thảy bao nhiêu. Mười tám hay hăm ba, anh cứ lẩn quẩn cố nhớ nhưng đành bất lực lặp lại việc đếm vào hôm sau. Một việc có lẽ vô cùng tẻ nhạt với số đông nhưng lại chưa bao giờ tẻ nhạt với anh, bởi những con số tồn tại trong đời chẳng thô ráp khô khan như người ta vẫn nghĩ. Vụ cháy đã làm khuyết đi một nhịp đếm, anh nhớ trong cái cửa hàng nhiều tầng ấy dường như chỉ có những bức tượng Phật bằng gỗ.

Duy nhất cửa hàng này trên con đường đó chỉ bán tượng Phật được tạo tác từ nhiều loại gỗ. Những tượng Phật được chạm trổ cầu kỳ uyển chuyển từ những bàn tay lành nghề lâu năm, hẳn vậy. Từng họa tiết dù nhỏ nhất cũng không hề có dấu vết nào của sự cẩu thả, và lúc dừng đèn đỏ nhìn thật lâu vào cửa hàng – đã nhiều lần như thế, anh nghĩ chủ của nó hẳn là một người kỹ tính và cầu toàn. Như có thứ ma lực nào đó bắt đầu từ những bức tượng kia thật sự hút anh vào một vùng bí ẩn không thể lý giải, tồn tại mà như không tồn tại, khiến anh buộc phải ngoái nhìn. Anh không rõ từng bức tượng ấy đẽo gọt hình dáng của vị Phật nào, nhưng tất cả hồ như đều mang một linh hồn riêng sau cung cách ẩn nhẫn và trầm mặc, mà ở đó cái ác không bao giờ được phép hiện diện. Những bức tượng với một vẻ ngoài hoàn hảo cùng một linh hồn tự do, anh nghĩ, và tự hỏi bàn tay nào đã vượt ra khỏi những trần tục để có thể tạo nên được những linh hồn như thế? Mọi hình dáng bên ngoài của những tượng Phật kia hoàn toàn chỉ xuất phát từ trí tưởng và lý lẽ mơ hồ của con người, chẳng có ai trên đời đã từng thấy từng chạm vào những vị Phật ấy, nhưng linh hồn của những bức tượng thì ở ngay đây, và anh có thể nhìn thấy bằng một con mắt khác – không biết tự khi nào, một đặc ân chăng? Có lẽ anh sẽ không tiết lộ với bất kỳ ai – một việc chẳng để làm gì, hẳn vậy.

Đi ngang cửa hàng ấy sau cơn lên đồng của lửa, anh chỉ còn thấy một vùng hỗn độn của tro tàn. Dường như mùi của lửa vẫn còn quanh quất mặc dù bầy khói đã di tản hết về trời. Những chiếc lưỡi rợn ngợp của lửa đã quét sạch mọi bức tượng gỗ, và không quên đánh dấu mình bằng nhiều vết loang lổ chẳng rõ hình thù trong mọi ngóc ngách của cửa hàng, lúc này có cảm tưởng nó đang co rúm lại. Nhưng dù những bức tượng Phật ở thể dạng nào – một vẻ đẹp tuyệt mĩ hay những tinh thể tro bụi lẫn trong tàn tích – thì linh hồn của chúng vẫn nguyên vẹn, dường như không buồn không vui, không hân hoan không khổ hạnh, có chút trống rỗng, chút điềm nhiên, tản mác giữa tầng không bên trên đám tro tàn, rồi thưa vắng dần, và mất hút sau một vài ngày vảng vất. Những linh hồn tượng gỗ có thể về đâu, anh tự hỏi, và nhận ra đời sống chỉ giá trị khi còn những câu hỏi bỏ lửng chưa thể lý giải như thế. Sự trọn vẹn hay đi đến cùng tận một điều gì đó là bất khả, những câu hỏi không thể lý giải một cách thích đáng luôn đầy bí hiểm, hẳn vậy, và luôn khiến loài người nhận ra sự hữu hạn của mình.

Minh họa: Lê Trọng Nghĩa

Có phải những linh hồn tượng gỗ đã dắt anh vào vô vàn chiêm bao không đầu không cuối suốt nhiều đêm sau đó? Thức dậy và hồi tưởng từng mảnh chiêm bao, cố nhào nặn ký ức để cho chúng một hình hài, anh thấy như mình đang đứng ở bên rìa giấc ngủ của chính mình và nhìn vào đó, dõi theo từng chuyển động diễn ra trong một bầu im lặng vi diệu. Anh đã gặp những người con gái che khăn kín mặt múa những vũ điệu không rõ tượng trưng hay diễn giải ý niệm gì, chỉ biết thân thể họ như đang cất lên tiếng gọi mê hoặc huyền bí, bằng từng động tác nhuần nhuyễn anh chưa được thấy bao giờ. Tất cả diễn ra trong ánh trăng tuyền một màu trắng rót xuống luênh loang như sữa, anh nhớ rõ ràng là vậy, giữa vùng cát vàng hoang vu rộng đến hư vô, khi mộng và thực đã không còn ranh giới nào. Và những linh hồn tượng gỗ chấp chới bay quanh họ lúc tỏ lúc mờ, lúc hiện lúc ẩn, phiêu diêu tựa những thước lụa mảnh đến gần như không trọng lượng, hoặc mềm mại tựa dòng chảy của con nước mùa thu, anh chỉ biết miêu tả được vậy, vào khoảnh khắc sáng tối lập lòe hiện lên muôn vàn đường nét. Có phải những linh hồn tượng gỗ đã bay về trú ngụ trong miền thăm thẳm chiêm bao? Anh không rõ. Chiêm bao ấy cứ lặp lại y hệt sau vụ cháy, khi vía anh đã lún thật sâu vào giấc ngủ. Cũng những vũ điệu mê dụ ảo huyền như thế từ những thân thể ánh lên ngân ngấn và phồn thực dưới màu trăng trắng lóa, thuần thục tựa một nghi lễ. Bắt đầu từ niềm thôi thúc khẽ khàng rồi mạnh mẽ đến mức anh không thể cắt nghĩa, anh khao khát được thấy khuôn mặt sau lớp khăn mỏng của những vũ nữ ấy. Anh chờ đợi, chờ đợi mãi, trong chiêm bao từng đêm trăng sáng, trong lẫn lộn mơ thực tỉnh mê. Thấy những khuôn mặt ấy để làm gì, đôi lúc anh hỏi chính mình, rồi nhận ra đó là một câu hỏi vô nghĩa, anh không nghĩ mọi việc làm trên đời này đều cần phải có chủ đích và tường minh.
Đó có lẽ là khao khát duy nhất của anh vào lúc này. Cả sáng và chiều, thời gian ở bảo tàng tựa trăm ngàn hòn đá tảng kéo ghì anh xuống, và những giấc chiêm bao thường xuất hiện vào những đêm sáng trăng như thể một chiếc đòn bẩy, bật dậy trong anh khao khát hiếm hoi cho anh biết mình vẫn còn thứ để chờ đợi. Nếu không có chiêm bao, rất có thể anh đã hóa thành một bức tượng ám đầy bụi mù như muôn vàn bức tượng trong bảo tàng, một bức tượng nhẵn lì nỗi buồn vui, bị phủ lấp trong cái rợn ngợp đến ám ảnh của màn đêm tịch mịch. Vùng cát vàng hoang vu nơi những nàng vũ nữ che mặt múa như một nghi lễ dưới bóng trăng, có lẽ linh hồn tượng gỗ đã đưa anh tới đó như sự cứu chuộc cho những khắc giây chùng nhão trôi qua ở bảo tàng.

Nhiệm vụ của anh là trông coi bảo tàng và phủi bụi cho từng bức tượng đã ngấm sâu lớp lớp gợn sóng thời gian. Những bức tượng lớn nhỏ cao thấp được xếp một cách có chủ ý trong những căn phòng tối giản lênh loang trắng. Những nhân dạng sướng khổ, khóc cười, bi thống tột cùng hay tư lự xa xôi, giữa nhiều mảng ánh sáng chồng lấp lên nhau vàng hanh tựa bóng chiều say ngủ. Vài tượng đá trăm năm lộ nửa thân trên bị mất đầu, cất tiếng nói bằng ngôn ngữ của một cơ thể căng mẩy, mềm mại từng đường cong tài hoa. Nhiều bức tượng mình người đầu thú ẩn giấu điều gì sâu thẳm anh không thể chạm tới, nhưng chúng luôn khoác lên anh linh giác mơ hồ đến từ phía bên kia của chiếc bóng thời gian vô tận. Muôn vàn con rồng, chim hạc, hổ thần, linh mã kiêu hãnh bên cạnh những vị thần, đức Phật chìm sâu trong tịch lặng mặc tưởng. Tất cả đều hằn in muôn trùng dấu vân của ký ức, của hưng phế thời cuộc hay tín ngưỡng con người, đôi khi hóa thành dòng sông ảo ảnh róng riết cuộn trào hay đáy vực lặng câm choáng ngợp, nhấn chìm anh vĩnh viễn ở đó.

Như một cuộc xâm lăng trong câm lặng, bụi có ở mọi nơi chốn dù hữu hình hay vô hình trong lòng thành phố. Bảo tàng, nơi mọi thứ tưởng chừng bất động giữa những cơn lốc của thời gian, bụi đã âm thầm ẩn mình và sinh sôi trong từng bề mặt, đường vân, kẽ nứt, di cư thật sâu vào bên trong từng bức tượng. Bụi bám theo muôn bàn chân người từ khắp cõi nhân gian bước vào bảo tàng, bụi lửng lơ theo những dòng chuyển lưu chầm chậm của không khí, bụi hóa thành triệu triệu tinh thể óng ánh giữa dải nắng chiều xiên qua cửa chớp, vạch ra trên ngực tượng người nhiều đường thẳng như thể những dẻ xương sườn. Mỗi tuần anh đều lau phủi, đuổi đi đám bụi lì lợm bám dày trên những bức tượng, một công việc bao giờ anh cũng nghiêm cẩn và tập trung cao độ, kiên nhẫn tiếp cận đến kẽ hở hẹp nhất, kéo dài hàng giờ trước khi bảo tàng mở cửa. Bằng cách đó, anh giao tiếp với những bức tượng bằng thứ ngôn ngữ vô thanh, một nỗi cộng cảm sâu xa khác lạ mà anh không thể tìm thấy ở đồng loại. Có lẽ sẽ không còn ai khác làm công việc này phù hợp hơn anh. Với nhân dạng cao gần 2 thước rưỡi, một dị thường trong mắt người đời lại hóa thành lợi thế trong công việc lau bụi cho những bức tượng tầm vóc đồ sộ, cao chót vót ở tiền sảnh của bảo tàng.

Cái thân thể dài ngoằng lê thê từng là một nỗi ám ảnh thường trực. Anh khước từ những đôi giày đế cao, chẳng bao giờ mua tới loại áo kẻ sọc dọc, trải nệm nằm dưới sàn thay vì phải thu mình, co chân trên chiếc giường gỗ cũ. Âm thầm từng chút, từng chút một, những đốt xương, da thịt, tay chân, cả thân thể anh vẫn bất chấp dài ra vượt mọi giới hạn sinh học, mặc cho anh đã đi qua quãng dậy thì từ lâu. Mỗi sáng thức dậy trong nỗi trống rỗng thường trực, anh tự hỏi đêm qua cái thân thể bất trị này liệu có lén lút dài ra thêm một chút, giữa lúc hồn anh đương đắm thật sâu vào vũng lầy chiêm bao không đáy. Một nỗi sợ bất thần vụt qua rồi vần vò mãi giữa lòng anh mỗi khi anh phải rướn mình, nhón gót lau bụi ở những bức tượng dáng hình lênh khênh, hay những vị trí nằm khuất bị phó mặc dưới lớp bụi mù. Rằng cứ đẩy thân thể lên cao, vươn ra hết mức nhiều lần như thế liệu có thôi thúc thịt xương anh dài ra như một chiếc áo giãn? Vô vàn ánh nhìn tha nhân đã bám lên thân thể anh như thể một kẻ đột biến lạ lùng. Người vợ mai mối của anh đã rời đi ngay sau lần làm tình đầu tiên với một thân thể dài quá khổ, chới với tựa chiếc cần câu oằn mình trong sức giật của con cá lớn, với những dẻ xương trơ khấc dưới lớp da thịt nhẵn nhụi, có thể vô ý làm đối phương đau giữa những va chạm thể xác. Đôi khi nằm im để bóng đêm thấu buốt vây bọc lấy cơ thể, anh thấy mình đích thị là một thân củi mục lâu năm, đang bị bầy mọt bò ra từ những chiếc kén của nỗi ám ảnh khoét dần từ bên trong, chỉ còn lớp vỏ thô cứng. Anh hoài nghi về sự tồn tại của mình, anh tự phủ nhận chính anh, rằng cơ thể này không thuộc về anh.

***

Anh nằm giữa những bức tượng bặt câm trầm mình trong ánh trăng lìm lịm, xuyên qua từng ô cửa tràn vào gian phòng trắng. Khi trăng đổ như thác bên ngoài bảo tàng, anh ở trong này lặng im đợi sự trở lại của những nàng vũ nữ che mặt trong nghi lễ ánh trăng. Dường như vía anh vẫn dùng dằng chưa chịu bước qua cánh cửa mở vào miền chiêm bao, nên anh còn đang kiên nhẫn vắt tay nhìn lên vòm nhà, thả ánh mắt trần trụi lặn ngụp giữa thác trăng. Một đàn ý nghĩ hóa thành bầy nhện chăng tơ ngang dọc trong đầu anh rối rắm. Chúng dẫn anh trở về cái cửa hàng đồ gỗ đã hóa tàn tro dặt dìu những linh hồn tượng gỗ, buột anh lại với đám câu hỏi lửng lơ vĩnh viễn chẳng có lời hồi đáp. Người ta bảo chính người chủ cửa hàng đã tự tay gầy lửa đưa tất cả về hình hài tro bụi. Anh tự hỏi cơn cớ từ đâu? Có phải trước đó những ngọn lửa ấy đã bừng lên từ rất lâu rồi âm ỉ cháy mãi, ở sâu bên trong người chủ cửa hàng? Hẳn là đã có một chuẩn bị kĩ càng cho sự khởi sinh của những ngọn lửa, anh không nghĩ chúng được bắt đầu từ một bốc đồng nhất thời hay mộng mị ảo giác. Liệu rằng lúc ánh lửa chỉ mới là một đốm nhỏ leo lét trên tay, người chủ cửa hàng có lưỡng lự trong khắc giây nào đó, trước khi để chúng nở ra thành bầy phần phật trước mặt mình? Đôi khi chẳng có cuộc chiến nào trên thế gian tàn nhẫn và đớn đau hơn cuộc chiến giữa lòng người vốn đầy mâu thuẫn. Người chủ cửa hàng đã ở đâu trong suốt cơn trào dâng của lửa – câu hỏi ấy cứ lặp lại trong anh, vào khoảnh khắc những bức tượng gỗ hình Phật rực sáng lần cuối và cùng nhau đi vào vĩnh cửu?
Anh nằm bất động trong đêm tịch mịch. Thời gian chảy qua bảo tàng như gặp quãng tù, nghẽn lại và dồn ứ đến mức anh nghĩ mình không còn thở được. Tuồng như có tiếng rấm rứt từ đâu đó bên trong bảo tàng, đơn độc, day dứt, lúc trầm buồn ngắt quãng rồi nhỏ dần chỉ còn nghe hơi thở, lúc ngỡ đã im vắng, bặt câm, lúc lại nấc lên sắc lạnh xé vụn màn đêm tựa tiếng mèo kêu mùa động dục. Anh vô thức đứng dậy men theo những vệt trăng đi tìm tiếng khóc ấy, toàn thân bỗng cuống cuồng run lên giữa những bức tượng bất động lạnh lẽo, cả bảo tàng như đang không ngừng nới giãn ra về phía vô cùng, khiến mọi thứ trở thành bất định. Từ đâu muôn vàn tiếng khóc đồng loạt nức nở xung quanh anh, vỡ bung ra tựa những mảnh thủy tinh cứa vào bóng đêm giàn giụa ánh trăng bạc. Những bức tượng đang khóc. Những giọt nước mắt vô hình. Như thể bao nhiêu hỉ, nộ, ái, ố trần gian đều đang trào lên cuồn cuộn giữa bảo tàng. Những tiếng khóc khàn đặc, lảnh lói, lê thê, đứt lìa. Những tiếng khóc đàn bà, đàn ông, người già, con nít. Những tiếng khóc góa bụa, mồ côi, oan khiên, lầm lỡ. Những tiếng khóc trần ai, dày vò, tức nghẹn. Ngàn đôi mắt bỗng hóa thành đáy vực, những bức tượng bắt đầu run rẩy, dồn nén, bung thoát. Anh ngã xuống dưới chân một bức tượng mình người đầu thú sừng sững, cùng lúc có tiếng rống xé trời vút lên. Rồi anh thấy giữa ánh trăng rờ rỡ, từng bầy chim hạc, phượng hoàng, khổng tước, cùng chấp chới những linh hồn người và thú nối nhau bay về trời. Anh vụt đứng dậy xấp xải chạy theo, rướn người hết cỡ về phía ấy. Nhưng anh bất lực không thể bay lên, một bức tượng đá bỗng hiện ra trước mặt. Nơi đó, những giọt lệ óng ánh đang lẳng lặng rơi xuống từ hốc mắt tượng một người đàn bà khổ hạnh, loang ướt cả mảnh vải bọc đứa con còn ẵm ngửa trên tay. Anh bỗng thấy buốt ran lồng ngực mình. Một đàn gió từ đâu kéo tới, vuốt qua mặt anh thông thốc. Mở mắt ra anh thấy từng vốc trăng đang chảy vào bảo tàng qua những kẽ tường bắt đầu nứt toác, tràng ngói vỡ liên tiếp khô khốc trên cao. Những tiếng khóc đã im bặt. Từng chiếc đèn treo lửng lơ giữa trần nhà lần lượt rơi, cả bảo tàng đang rùng rùng đổ xuống. Anh nghiêng ngả, hộc tốc chạy đi, chạy mãi, sau lưng ánh trăng vẫn mặc nhiên khoả xuống những hoang tàn.

***

Anh nghỉ việc ở bảo tàng ngay sau giấc chiêm bao ấy. Việc đối diện với những bức tượng như trước kia với anh bây giờ là bất khả. Anh rời thành phố, không bao giờ có ý định sẽ quay lại chốn này, cùng lúc anh cũng nhận ra chẳng nơi nào trên thế gian mà anh thật sự thuộc về. Anh lên tàu và ngồi ở toa cuối, cố vẽ lại trong tâm trí chính anh của quãng thiếu thời sống dưới mái chùa có những sư cô. Nhưng mọi hình ảnh đều chập chờn như hiện lên từ một tấm đĩa xước cũ kĩ lâu năm, anh luôn cảm thấy mình bất lực khi đối diện với thăm thẳm ký ức. Một vùng trống rỗng chẳng rõ từ đâu dần loang ra và chiếm hữu khắp tâm trí, khiến anh ngỡ như mình đã từng không tồn tại. Anh tự hỏi người ta sẽ tồn tại thế nào nếu ký ức bị mất sạch vào cái hố đen xoáy hút và khó lường của thời gian? Ngồi trên tàu, anh ngả đầu lên thành ghế và nhẫn nại đợi giấc ngủ vẫy tay đón anh vào. Ánh trăng đăm đắm ngoài ô cửa toa tàu rọi vào khuôn mặt anh như thôi miên, khơi dòng ý nghĩ về những nàng vũ nữ che mặt đã lâu không trở lại. Đôi khi anh tự hỏi họ đến từ đâu và nguồn cơn nào anh lại gặp được họ. Có phải họ là người của hàng trăm năm trước, phía bên kia ranh giới của đời sống mà anh đang dự phần? Khuôn mặt sau lớp khăn mỏng kín đáo của những nàng vũ nữ ấy vẫn luôn là một bí ẩn cồn cào trong anh.

Có tiếng trẻ khóc ngằn ngặt. Anh ngẩng dậy đảo mắt vòng quanh toa tàu, tìm kiếm để chắc chắn rằng tiếng khóc kia không phải vọng ra từ tâm trí. Đã nhiều lần anh nghĩ mọi thứ xung quanh mình đều không thực. Phía bên kia, một bà mẹ trẻ mất ngủ đang uể oải dỗ con nín khóc. Anh lại ngả lưng lên thành ghế và khép hờ đôi vành mi, con tàu vẫn lao đi vun vút, một đoạn nhạc trầm trầm không điệp khúc anh đã nghe từ đâu cứ lặp lại trong đầu. Đột nhiên bức tượng người mẹ khổ hạnh bồng con, với những giọt lệ lẳng lặng tuôn từ hốc mắt bất ngờ trở lại trong anh. Bao nhiêu năm lầm lũi lau bụi cho bảo tàng, anh chưa bao giờ thấy bức tượng đó ngoài đời thực. Liệu người đàn bà ấy có can dự gì đến cái gốc tích mơ hồ và tù mù của anh? Từ lâu anh đã không còn cơ hội được tường minh chính gốc gác của mình. Những sư cô trong ngôi chùa anh lớn lên đã về đâu khi ngôi chùa biến mất sau một trận lở núi? Đời sống này luôn chực chờ những sự biến mất, buộc ta phải sẵn trong tâm thế đối diện với những biến mất quanh mình, cho tới một ngày đến lượt ta.

Anh về đứng giữa một vùng cát vàng minh mông, nơi anh được người ta tìm thấy bằng những tiếng nấc buốt khan và cô độc, giữa mùa trăng đầu đời rợn ngợp sóng sánh. Anh tự hỏi đêm hôm ấy có như đêm nay, những trảng cát đẫm mình trong ánh trăng tựa một bình rượu luênh loang rót mãi không đầy. Giữa miền hoang vu lặng gió, một bầu tĩnh lặng tuyệt đối đang chiếm lấy tất cả, ánh trăng mỏng tang dường như cũng ngấm sương lạnh buốt da thịt. Những vân cát nối dài tựa những dấu vân tay của gió để lại, trải đến ngút ngát phía triền núi bạc u tịch ở chân trời. Anh tung lên cao một vốc cát đầy hai bàn tay, muôn hạt cát vàng hoá thành những tinh thể lấp lánh tự do bay giữa miền trăng tinh khiết. Liệu rằng đêm nay, nơi hoang mạc bát ngát này, anh có được gặp lại những nàng vũ nữ trong nghi lễ ánh trăng, được tỏ tường khuôn mặt của họ sau mảnh khăn hư ảo ấy? Có thể có, cũng có thể không. Anh nhận ra chẳng thể sống bằng cách cứ mãi đợi chờ và bám víu vào những điều vô định.

Anh ngồi xuống bên mớ củi khô lốm đốm địa y gom được từ vạt rừng gần đó, lần lượt xếp chúng lên nhau và bắt đầu nhóm lửa. Lửa lóe sáng tựa những ngón tay thon từ khoanh lá mục vuốt sang những thanh củi, dần bùng lên thành ngọn nhảy nhót bềnh bồng. Một cánh chim từ tốn bay về bóng trăng trầm mặc phía sườn núi thẫm sương. Có niềm ấm áp dâng lên từ sâu thẳm khiến lòng anh hân hoan khe khẽ. Giữa hoang mạc bao la, từng thớ vỏ cây khô cong mình bắt lửa tanh tách, trước mắt anh quầng sáng phiêu dao của lửa đã hòa vào ánh trăng bất tận.

TRẦN VĂN THIÊN

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Phượng hoàng trên đỉnh Phương Mai

Tôi bảo phải đi tìm phượng hoàng trên đỉnh Phương Mai. Mẹ lắc đầu. Mẹ chôn giấu giấc mơ trong hình hài tôi, còn giấc mơ của tôi đã bay theo cánh phượng hoàng về phương Nam.

Cỏ xanh về phía cũ

Dưới góc nhà khuya sớm
những vào ra chạm vào hoang vắng
chỉ bóng mây trú ngõ nhà mình
cha gỡ trúc tre đan màu thúng cũ

Khuya

Nửa khuya xếp áo cho người cũ
Nghe cả thiên thu bỗng rủ về
Chẳng còn cay mắt hay rơi lệ
Sao thấy đêm này dài lê thê