Tiếng khóc và nụ cười con thơ trên vai mẹ

(VNBĐ – Thơ và lời bình). Với tiêu đề Mẹ gánh ước mơ, những tưởng Phan Hoàng sẽ dắt người đọc đi vào thế giới của giấc mơ, của mộng mị, nhưng không, nhà thơ lại dẫn người đọc đến với một thực tế khốc liệt của chiến tranh qua ký ức tuổi thơ của chính tác giả để chiêm ngưỡng chân dung người mẹ vĩ đại đã gánh con chạy qua mùa loạn lạc.

Cánh cửa bài thơ vừa mở, cảnh tượng người mẹ gánh con chạy dưới tầm đạn lửa bủa vây ùa ập hiện ra:

Mẹ quảy mẹ chạy
cắc bụp cắc đùng
người ngã sau lưng
người chúi trước mặt

Nhiều câu thơ ngắn, với tiết tấu nhanh tái hiện sinh động hình ảnh mẹ vừa “quảy” vừa “chạy” trối chết bởi tiếng súng đạn “cắc bụp cắc đùng” rượt đuổi, bủa vây. Mẹ, hết “ngã sau lưng” lại “chúi trước mặt”. Nhưng dù có “ngã”, có “chúi”, mẹ cũng bất chấp đớn đau, bất chấp hiểm nghèo cố giữ cho cái “gánh con” an toàn. Sức mạnh nào đã khiến cho mẹ gan góc đến vậy? Đây là câu trả lời: “Tiếng khóc con thơ/ mạnh hơn/ tiếng gầm đại bác”. Một so sánh hết sức phi lý nhưng lại rất có lý với trái tim người mẹ. Câu thơ là một lời khẳng định: Tình thương con mạnh hơn cái chết. Điều đó chỉ có thể lý giải bằng quy luật của lòng mẹ “Tình yêu của mẹ dành cho con không giống bất kỳ điều gì khác trên thế giới. Tình yêu đó không có luật lệ và không có hối tiếc. Nó thách thức tất cả và không khoan nhượng, tiêu diệt tất cả những gì cản đường nó” (Danh ngôn). Các văn nghệ sĩ thật có lý khi lấy cái kích cỡ, tầm vóc của vũ trụ để đo lòng mẹ “Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang” (Ca dao), “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” (Y Vân). Tình mẹ quả là lớn lao, cao cả, thiêng liêng! Nhưng sẽ cao cả thiêng liêng hơn khi đặt nó vào tình huống tử – sinh. Gánh con chạy dưới làn mưa bom bão đạn, trên “Những con đường loang lổ hố đen đao phủ” chẳng phải mẹ đang chạy bên bờ của cái chết? Nhưng nếu không “liều” thì liệu mẹ có đưa con mình đến nơi an toàn? So với đời người dài rộng thì lúc mẹ gánh con chạy trong đạn lửa có thể nói chỉ là khoảnh khắc. Nhưng đó là khoảnh khắc làm chói sáng nhất ngọn lửa thiêng trong trái tim người mẹ. Và đó cũng là lời lý giải vì sao trong vô vàn ký ức gian lao của mẹ mà “tôi” nhớ nhất ký ức ấy. Và vì sao mỗi lần nhắc đến mẹ thì ký ức ấy lập tức sống lại ngay.

Tiềm thức luôn lưu giữ khoảnh khắc thiêng liêng ấy còn ý thức thì luôn bảo rằng mẹ là người vĩ đại, mẹ có một sức mạnh phi thường. Phải, rất phi thường! Ngẫm mà xem mẹ, một người phụ nữ gầy guộc với cái gánh con nặng trĩu trên vai, với “Bàn chân trần rễ tre tóe máu” chạy trên “Những con đường loang lổ hố đen đao phủ”, qua những vùng đầy tử khí, thần chết như sẵn sàng chìa tay ra “chia lìa tình mẫu tử” vậy mà kỳ diệu thay “Bước mẹ đè gió Nam cồ/ lướt mềm sỏi đá nhấp nhô triền núi/ giải độc vạt rừng giãy giụa da cam/ an ủi ruộng nương um tùm cỏ dại” để đưa con đến bến bình an. Phải chăng cái bản năng người mẹ đã làm nên cái điều kỳ diệu ấy? Khác với những chi tiết tả thực ở trên, khi nói về sức mạnh của mẹ, nhà thơ sử dụng thủ pháp ngoa dụ (cường điệu, phóng đại). Có phải “tôi” đã “thần thánh hóa” mẹ mình? Không đâu, chỉ vì tình yêu “tôi” dành cho mẹ là thứ tình cảm tôn thờ.

Trong tiềm thức “tôi” còn in đậm thời khắc mẹ “Gỡ nón quạt mùi bom” xua đi hắc ám khi đưa con về đích. Trong suy nghĩ “tôi” lúc này chính “bóng mẹ che tầm đạn” để giành sự sống cho con. Sao không phải “thân mẹ” che mà là “bóng mẹ”? Nói đến “bóng” là nói đến cái vô hình. Có phải nhà thơ đề cập đến một thứ sức mạnh vô hình: tình – thương – con? Đúng thế, chỉ có thương con không bờ bến, không điều kiện thì mẹ mới sẵn sàng liều mình che chở cho con. Và đây là giây phút mẹ chờ đợi nhất “Âu yếm con mẹ khóc”. Làm sao nói hết niềm hạnh phúc vô biên qua giọt nước mắt của mẹ khi nhìn thấy con mình vẫn bình yên sau những giây phút kinh hoàng. Đây là giọt nước mắt được kết tinh từ trái tim người mẹ dám đánh cược tính mạng mình vì sự sống còn của con. Đáp lại giọt nước mắt của mẹ là “bập bẹ miệng con cười”. Trong mắt mẹ lúc này “Nụ cười con thơ/ mạnh hơn/ tiếng gầm đại bác”. Một lần nữa nhà thơ lại khẳng định tình yêu con mạnh hơn cái chết. Nhưng lần này cái mạnh hơn tiếng gầm đại bác không phải “tiếng khóc con thơ” mà là “nụ cười con thơ”. Thì ra cả “Tiếng khóc” và “Nụ cười” của con mẹ đều đặt trọn trong đôi thúng gióng trên vai mẹ. Nếu “tiếng khóc con” thôi thúc mẹ vì con mà hành động liều mình thì “nụ cười con” là cái đích đến của sự hy sinh. Và trong cuộc chạy đua với thần chết, chân mẹ đã chạm tới đích: Nụ – cười – con. Hành trình từ “Tiếng khóc” đến “Nụ cười” có thể tính bằng thời gian và độ dài vật lý nhưng ai có thể cân đo đong đếm được hiểm nguy, gian khó ở mỗi bước chân mẹ gánh con chạy qua mùa loạn lạc.

“Nụ cười con” khép lại hành trình chạy loạn nhưng lại mở ra trong lòng mẹ một trạng thái tinh thần khác “gieo vào lòng mẹ hạt giống hy vọng”. Hạt giống hy vọng đó đã nảy mầm trên cánh đồng ước mơ của mẹ. Mẹ ước mơ gì? Nhiều lắm. Nhưng giữa lằn ranh sinh – tử, mơ ước duy nhất của mẹ là con của mẹ được sống còn. Và, cuộc đời con trong thực tại hôm nay cũng chính là ước mơ mẹ đã gieo trồng và đã “gánh” nó chạy qua mùa loạn lạc. Vậy là, cái “gánh con” trên vai mẹ đã được nâng tầm thành “gánh ước mơ”. Với hình tượng thơ: Mẹ gánh con chạy qua mùa loạn lạc, Phan Hoàng đã góp vào cõi thơ viết về mẹ một “cái gánh” đặc biệt: gánh ước mơ, hay nói cách khác đó là cái gánh của sự tái sinh.

Thơ viết về mẹ thường mượt mềm nhưng giọng thơ của Mẹ gánh ước mơ thì lại gập ghềnh, khúc khuỷu. Ngôn ngữ thơ có phần thô ráp và gai góc. Đây là “tạng” bút pháp riêng biệt của Phan Hoàng. Có thể nói chủ thể sáng tạo thật có lý khi dùng giọng điệu này, ngôn ngữ này để thể hiện nhân vật trữ tình trong tình huống dữ dội, khốc liệt. Cách kiến tạo không gian thơ cũng rất ấn tượng. Tạo ra một không gian dữ dội, khốc liệt của ngày đạn bom loạn lạc là để dẫn người đọc đến một không gian khác rất ấm áp, an bình. Đó là không gian của tình mẫu tử thiêng liêng, một không gian chỉ có tình yêu bao bọc, có sự chở che và đức hy sinh của mẹ. Chính ánh hào quang từ trái tim người mẹ tỏa rạng đã chắp cánh cho hồn thơ thi sĩ thăng hoa để cho Mẹ gánh ước mơ có sức lan tỏa.

Mẹ gánh ước mơ

PHAN HOÀNG

Mẹ quảy mẹ chạy
cắc bụp cắc đùng
người ngã sau lưng
người chúi trước mặt

Tuổi thơ tôi trên thúng gióng tản cư
mẹ gánh ước mơ chạy qua mùa loạn lạc
tiếng khóc con thơ
mạnh hơn
tiếng gầm đại bác

Những con đường loang lổ hố đen đao phủ
sông suối lềnh bềnh ngầu đỏ máu tươi
biển thét gào lớp lớp sóng trào chia lìa tình mẫu tử

Bước mẹ đè gió Nam cồ
lướt mềm sỏi đá nhấp nhô triền núi
giải độc vạt rừng giãy giụa da cam
an ủi ruộng nương um tùm cỏ dại

Bàn chân trần rễ tre tóe máu
thúng gióng gió đánh hụt hơi
mẹ đặt con dưới hố bom khét bầm thân đất
ngoái cổ ngóng về đồng làng tan hoang mồ mả ông bà

Gỡ nón quạt mùi bom
bóng mẹ che tầm đạn
âu yếm con mẹ khóc
bập bẹ miệng con cười
nụ cười con thơ
mạnh hơn 
tiếng gầm đại bác
nụ cười gieo vào lòng mẹ hạt giống hy vọng
đồng làng bình yên gặt những mùa sau…

(Rút từ tập thơ “Chất vấn thói quen”, Nxb Hội Nhà văn, 2012)

* Ảnh minh họa: internet

TUỆ MỸ

(Văn nghệ Bình Định số 113 tháng 9.2022)

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thơ, hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi   

Tập thơ “Tiếng của thiên lương” của Mai Thìn lôi cuốn người đọc bởi một lối viết coi ý tứ là trọng, coi tổng thể nặng hơn chi tiết và rất nặng lòng trước thế thái nhân tình…

Phê bình văn học trong “Dạo gót vườn văn”

“Dạo gót vườn văn” với 83 bài viết, bàn về nhiều thể loại thuộc lý luận – phê bình, chân dung nhà văn, chuyện làng văn nghệ, phê bình sách, bình thơ, bình luận về văn xuôi, ngôn ngữ…

Đời cần lắm, những vần thơ

Sang đến thế kỷ hai mươi, Yến Lan, chỉ mới mười sáu, mười bảy tuổi thôi, đã hóa mình thành ông lái đò với bao niềm tâm sự trong bài thơ mang mang phong vị cổ, Bến My Lăng.