Công chúa Lê Ngọc Hân và bài “Tế Quang Trung đế văn” bằng chữ Nôm

(VNBĐ – Nghiên cứu & Phê bình).

1. Công chúa Lê Ngọc Hân – nàng dâu đất Bình Định

Lê Ngọc Hân (1770 – 1799), là con gái thứ 09 của vua Lê Hiển Tông nên còn được gọi Ngọc Hân công chúa. Sau được gả cho Nguyễn Huệ (1786), khi Nguyễn Huệ xưng đế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung, bà được phong Bắc Cung hoàng hậu(1789). Bà là một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam thời thế kỉ XVIII. Cuộc đời bà gắn liền với những sự kiện lịch sử phi thường của dân tộc, cuộc tình giữa bà và Nguyễn Huệ luôn được các giới văn nhân, hậu học đời sau ca ngợi là một thiên tình sử diễm lệ. Năm 1799, khi bà qua đời, bà được vua Cảnh Thịnh truy tôn là Nhu ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu, được an táng tại huyện Gia Lâm, trấn Kinh Bắc. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, bà đã sáng tác hai kiệt tác để đời là Ai tư vãn (còn gọi là Khuê phụ thán, Tiên thánh thăng hà hoàng hậu ai vãn) và Văn tế vua Quang Trung (hay còn gọi là Tế Quang Trung đế văn). Hai tác phẩm này đều được viết bằng chữ Nôm.

Bài Văn tế vua Quang Trung của bà được đánh giá là một tác phẩm mở đầu cho dòng văn tế Nôm thời Tây Sơn. Bài văn được làm theo thể phú lời văn có khuynh hướng bác học, súc tích và giàu điển cố. Trong Thi văn bình chú, Ngô Tất Tố đã nhận xét: “Cả bài (văn tế) ý nghĩa rõ ràng, lời lẽ chải chuốt, dùng điển cũng đắc thể và xác đáng”(1). Hai tác phẩm Nôm của Ngọc Hân, đặc biệt là bài Văn tế vua Quang Trung, Ngọc Hân công chúa đã gởi cho chúng ta tiếng than não nuột của một thiếu phụ thất vọng vì sự ra đi vĩnh viễn của một người chồng, một bậc quân vương, một người hùng đoản mệnh trong khi ngọn lửa chiến tranh vẫn tiếp tục lan tràn. Văn tế vua Quang Trung do đó đóng vai trò mở đầu cho một khuynh hướng tình cảm và ưu thời mẫn thế trong văn tế Nôm thời Tây Sơn nói chung và văn tế Hán Nôm vùng Bình Định nói riêng.

2. Về văn bản tác phẩm Tế Quang Trung đế văn

Tác phẩm Tế Quang Trung đế văn, còn gọi là Văn tế vua Quang Trung, đây là tác phẩm được viết bằng chữ Nôm của Công chúa Lê Ngọc Hân. Nó có cùng số phận với Ai tư vãn, tức là có sự nghi ngờ về tác giả của tác phẩm. Ở Văn tế vua Quang Trung, sự hoài nghi về tác giả được đặt ra khá cấp thiết, nguyên nhân cơ bản của nó nằm ở chỗ hình thức khá đặc biệt. Theo Nguyễn Cẩm Thúy – Nguyễn Phạm Hùng “nếu nhìn vẻ bề ngoài, Văn tế vua Quang Trung rất giống những bài văn tế của Phan Huy Ích. Muốn giải quyết vấn đề thỏa đáng vấn đề này, cần có một chuyên luận riêng về đặc điểm thể loại”(2). Về nguyên bản Nôm, cũng như những tác phẩm khác của Lê Ngọc Hân, Văn tế vua Quang Trung không còn nhiều bản Nôm. Về bản phiên âm quốc ngữ in trong nhiều trong các chuyên luận nghiên cứu về thơ văn Nôm thời Tây Sơn. Theo sự khảo sát của cá nhân, hiện nay có 04 bản quốc ngữ như sau: Bản của Trần Trung Viên sưu tập, in trong Văn đàn bảo giám (1932), tạm gọi bản A; Bản của Ngô Tất Tố in trong Thi văn bình chú (1957), tạm gọi bản B; Bản của Nguyễn Cẩm Thúy và Nguyễn Phạm Hùng in trong Văn thơ Nôm thời Tây Sơn (1997), tạm gọi bản C; Bản của Lộc Xuyên Đặng Quý Địch in trong Văn tế ở Bình Định (2008), tạm gọi là bản D; Bản của Bảo tàng Quang Trung (được sưu tầm năm 1992, hiệu đính năm 2019), tạm gọi bản E. Đây là bản trục, là bản chúng tôi sử dụng trong bài viết này.

3. Chú giải văn bản Tế Quang Trung đế văn

Than rằng:
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh(3), ngoài muôn dặm cùng trông vẻ thúy(4),
Một phút mây che vầng Thái Bạch(5), trong sáu cung(6) thoắt đã nhạt hơi hương.
Tơ đứt tấc lòng ly biệt; Châu sa giọt lệ cương thường(7).
Nhớ phen bến Nhị(8) thuận buồm, hội búa việt(9) chín châu(10) lừng lẫy,
Vừa buổi cầu Ngân(11) sẵn nhịp, đoàn ỷ la(12) đôi nước(13) rỡ ràng(14).
Hôn cấu(15) đã nên nghĩa cả(16); Quan san(17) bao quản dặm trường(19).
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu(19), tình thân hảo(20) đã ngăn chia đôi nước.
Song thế cả trót đà về Hán(21), hội hỗn đồng(22) chi cách trở một phương.
Lòng dẫu xót thấy cơn cách chính(23); Thân(24) lại nhờ gặp hội hưng vương(25).
Thành Xuân(26) theo ngọn long kỳ(27), đạo tề trị(28)gần nghe tiếng ngọc
Cung hữu(29) rạng mầu địch phất(30), tình ái ân muôn đội nhà vàng(31).
Danh phận(32) ấy cậy vun trồng mọi vẻ; Nền nếp xưa nhờ che chở trăm đường.
Ơn sâu nhuần gọi cỏ cây, chốn lăng tẩm(33) chẳng phạm chồi du tử(34)
Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu đường(35) nào khuyết lễ Chưng Thường(36).
Mọi nỗi, mọi nhờ trọn vẹn; Một điều một được vẻ vang.
Phép hằng gìn hạc thược tước thoa(37), buồng khuê(38) rạng khuôn nội tắc(39).
Điềm sớm ứng Chung tư(40) Lân chỉ(41), phái Lam(42) thêm diễn(43) thiên hoàng(44).
Mấy chút chưa đền đức cả; Gót đầu đều trọn ơn sang.
Đền Vị Ương(45) bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn(46) vừa khi dóng dả
Miền Cực lạc(47) xe mây vun vút, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?
Ôi!
Gió lạnh buồng đào(48), rơi cầm nẩy sắt(49); Sương pha cung đỏ(50), hoen phấn mờ gương.
Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần ngự(51).
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh dương(52).
Vấn vít bấy bẩy năm kết phát(53); Đau đớn thay, trăm nỗi đoạn trường(54).
Hé nhà sương(55) ngắm quyển cung châm(56), tiếng chi phất(57) hãy mơ màng trên gối
Nương hiên nguyệt(58) ngẫm lời đình chỉ(59), bóng thúy hoa(60) còn chấp chới bên tường.
Hang, núi(61) cũng phàn nàn đòi chốn; Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng.
Liều trâm thoa(62) mong theo chốn chân du(63), da tóc trăm thân khôn có tiếc
Ôm cưỡng bảo(64) luống ngập ngừng di thể(65), nhũ mang(66) đôi chút lại thêm thương.
Tiếc thay!
Ngày thoi thắm thoắt; Bóng khích(67) vội vàng.
Thuyền ngự tọa(68) đã ngang dòng Thái Thủy(69),
Bánh Long xa(70) thẳng chỉ chốn Tiên hương(71)
Nẻo hoàng tuyền(72) xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm đành cơn biệt duệ(73).
Chén hoàng thủy(74) kính dâng một lễ! Xét soi xin thấu cõi dương gian(75).
Hỡi ôi! Thượng hưởng!

4. Mấy nhận xét về bài Tế Quang Trung đế văn

Có thể nói, đây là một tác phẩm chất chứa bao nỗi niềm của một người vợ trước sự ra đi đột ngột của chồng. Bài văn tế này về cấu trúc hình thức có thể chia thành nhiều đoạn với những ý nghĩa khác nhau. Cả bài ý tứ gọn gàng, điển ngữ đẹp đẽ, xác đáng không chỉ góp phần thể hiện rõ sự chua xót, tình cảm đớn đau mà còn thể hiện văn tài của người viết.

Khởi phát từ cái chết đột ngột của Quang Trung hoàng đế mà ngòi bút của Lê Ngọc Hân như có thần và tuôn trào thành những áng văn Nôm bất hủ, bài Tế Quang Trung đế văn. Tất cả đều trình bày một mạch tư tưởng đó là: Sự ra đi đột ngột của vua Quang Trung như một sựu mất mát lớn lao của mọi người và nhất là với chính tác giả; Ngợi ca công nghiệp và những ảnh hưởng của vua Quang Trung trên nhiều phương diện. Nhất là đánh giá đúng phẩm chất con người của ngài: Tài đức, trung hậu, nhân ái, rộng lượng và cần mẫn; Bộc bạch lòng thương cảm, nhớ nhung của một người vợ trẻ và con thơ trước sự đột ngột chia tay không một lời từ biệt; Cuối cùng là sự nhìn nhận lại số phận kém may mắn, ngắn ngủi, bạc phận của bản thân tác giả. Về phương diện nghệ thuật, đúng như tác giả Nguyễn Văn Sâm đã nhận xét: “bài văn tế làm theo thể phú nên lời văn có khuynh hướng bác học, súc tích, điển cố”(76). Mặc dầu vậy, về nguồn gốc xuất xứ của điển cố, chúng tôi nhận thấy các điển ngữ được dùng ở đây khá phong phú, phức tạp và giàu ý nghĩa văn hóa. Các điển cố xuất hiện trong các câu, đoạn với ý nghĩa biểu trưng sâu sắc.

Tóm lại, tác phẩm đã để lại cho chúng ta một dư vị đắng cay, một tiếng than thở nao lòng của người trong cuộc, của một người thiếu phụ vô cùng chua xót trước sự ra đi vĩnh viễn của chồng, một sự thương xót trước đoản mệnh của người anh hùng áo vải và sự tự vấn, nhận chân một sự thật bẽ bàng trước hoàn cảnh thực tế của cuộc đời mình. Bởi lẽ, sau sự kiện này Lê Ngọc Hân tiếp tục chứng kiến biết bao cuộc tang thương mà lịch sử phân tranh cuối thế kỉ XVIII và những năm đầu thế kỉ XIX đã xảy ra. Với một lớp ngôn từ điêu luyện, bác học, thông qua tác phẩm Tế Quang Trung đế văn đã đóng góp vào lịch sử văn tế Nôm nước nhà nói chung và văn tế Nôm Bình Định nói riêng một viên ngọc bích lung linh và đầy bí ẩn, dự cảm.

Thanh Minh Tân Sửu, 2021.

TS. VÕ MINH HẢI

(Văn nghệ Bình Định số 96 tháng 4.2021)

* CHÚ THÍCH:

(1). Ngô Tất Tố (2010), Thi văn bình chú (Cao Đắc Điểm sưu tầm, bổ sung), Nxb Văn học, Hà Nội, tr.128.
(2). Nguyễn Cẩm Thúy – Nguyễn Phạm Hùng (1997), Văn thơ Nôm thời Tây Sơn, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.94.
(3). Trung tinh: Theo Lễ kinh, thiên Nguyệt lệnh có chú rằng các sao trong nhị thập bát tú thay nhau đứng giữa. Ngôi nào đứng chính giữa thì gọi là Trung tinh. Ở đây ngụ ý chỉ ngôi vua của Quang Trung vừa được xác lập.
(4). Thúy : màu xanh lông cánh của con chim Trả, đẹp. Bản A, B, C ghi là Thụy vẻ của điềm lành. Bản D, E chép là Thúy.
(5). Thái Bạch: Tức sao Mai, sáng nào cũng mọc ở phương Đông. Thi kinh, phần Tiểu Nhã, bài Đại Đông có câu: “Đông hữu Khải Minh, Tây hữu Trường Canh” (phía Đông là sao Khải Minh, phía Tây là sao Trường Canh). Hàn Thi 韓詩 có câu: “Thái bạch thần xuất đông phương vi khải minh, hôn kiến tây phương vi Trường Canh” (Sao Thái Bạch buổi sáng mọc ở phương đông gọi là Khải Minh, chiều mọc ở phương tây gọi là Trường Canh.
(6). Sáu cung: tức Lục cung, tức chỗ ở của hoàng hậu và các phi tần. Có nhiều cách giải thích khác nhau, theo sách Tử cấm thành đông tây lục cung nó được chia thành đông tây, mỗi bên có 6 cung, tổng cộng có 12 cung. Theo Chu Lễ, hậu đình của thiên tử được chia thành 06 cung, đằng trước 01, đằng sau 05. Hoàng hậu ở cung đằng trước, các phi tần có phẩm hàm từ phu nhân trở xuống thì ở các cung đằng sau.
(7). Cương thường: tức Tam cương (Vua tôi, cha con, chồng vợ), ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Ở đây chỉ nghĩa vợ chồng.
(8). Bến Nhị: Tức bến sông Nhị hà.
(9). Búa việt: Nguyên danh là Phủ việt (cái búa). Thời cổ, trong quân đội thường dùng để chém người. Ở đây chỉ chiến công của Tây Sơn trong lần dẫn quân ra Bắc. Bản A, B ghi là “Bái việt”: Lá cờ nhiều màu và lưỡi tầm sét, đồ dùng đi đường của các vị đế vương. Câu này nói công việc Nguyễn Huệ ra Bắc. Theo chúng tôi hai cách giải thích đều hướng đến một ý chỉ việc vua Quang Trung ra Bắc. Ở đây chúng tôi phiên thành Búa việt.
(10). Chín Châu: tức Cửu châu, đây là một khái niệm quan trọng có từ thời kì Tiên Tần, về sau có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, chính trị Trung Quốc. Trong Thượng Thư, thiên Vũ Cống đã có những ghi chép ban đầu về Cửu châu. Cửu châu gồm Ký Châu, Duyễn Châu, Thanh Châu, Từ Châu, Dương Châu, Kinh Châu, Dự Châu, Lương Châu và Ung Châu. Về sau dùng để chỉ toàn bộ đất đai lãnh thổ của một quốc gia.
(11). Cầu Ngân: cầu bắc qua sông Ngân hà. Nơi Ngưu lang, Chức nữ gặp nhau. Theo sách Hoài Nam Tử có chép rằng: Mỗi năm, cứ đến đêm mùng bảy tháng 7 (đêm Thất tịch), những con Ô Thước lấp sông Ngân để làm thành cầu cho sao Khiên Ngưu qua sông gặp sao Chức nữ. Vì thế người ta hay dùng điển này để chỉ việc vợ chồng lấy nhau. Ở đây dụng ý chỉ việc vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân nên duyên chồng vợ.
(12). Ỷ la : Nhiễu và là. Đoàn ỷ la tức đoàn người đưa rước dâu ăn mặc sang trọng đẹp đẽ.
(13). Đôi nước: ý chỉ hai nước, một của vua Lê, một của anh em nhà Tây Sơn.
(14). Rỡ ràng: Bản A, B, C chép là “Rõ ràng”.
(15). Hôn cấu: chỉ hôn nhân, vợ chồng. Từ này xuất xứ từ câu nói của Cát Hồng, người đời Tấn trong sách Bão Phác Tử, thiên Nhĩ tụng: “Phù hôn cấu chi kết, nghĩa vô bức bách, bỉ tắc giản trạch nhi cầu, thử tắc khả ý nãi hứa” (sự gắn bó của hôn nhân, nghĩa là không có sự ép buộc, bên lựa chọn, bên kia vừa ý, đó là ý nghĩa của nó vậy).
(16). Nghĩa cả: Tức nghĩa lớn.
(17). Quan san: Cửa ải và núi non. Ý chỉ sự xa xôi, cách trở.
(18). Dặm trường: Đường sá xa xôi.
(19). Tôn Chu: Tôn trọng nhà Chu. Thời Xuân Thu, thiên tử nhà Chu tuy không còn thế lực thực sự, như các nước lớn như Tề, Tấn vẫn một lòng tôn phò nhà Chu, giữ lễ quân thần. Điển này được dùng để chỉ rõ ý Quang Trung luôn giữ ý tôn trọng nhà Lê.
(20). Tình thân hảo : Ý chỉ quan hệ thông gia tốt đẹp.
(21). Thế cả về Hán: Khi Tiêu Hà đến dụ Anh Bố về với Lưu Bang đã từng nói: “Nay thế cả đã về nhà Hán”. Câu này mượn điển đó để nói đại thế thiên hạ trong nước đã thuộc về nhà Tây Sơn .
(22). Hỗn đồng: Dồn lại làm một, ý chỉ sự thống nhất.
(23). Cách chính : Thay đổi chính quyền, ý chỉ sự mất ngôi của nhà Lê.
(24). Thân: ý chỉ bản thân công chúa Ngọc Hân (tác giả).
(25). Hội hưng vương: ý chỉ sự trỗi dậy và thành công của Nguyễn Huệ khi xây dựng cơ nghiệp làm vua.
(26). Thành Xuân: tứ kinh thành Phú Xuân, nơi vua Quang Trung 光中 xây đàn tế cáo trời đất lên ngôi vua và chọn làm kinh đô.
(27). Long kỳ: Cờ rồng, cờ của nhà vua, nghi vệ thiên tử.
(28). Đạo tề trị: Đạo tề gia trị quốc.
(29). Cung Hữu: Tức Hữu cung, nơi ở của Lê Ngọc Hân khi làm Bắc Cung Hoàng hậu.
(30). Địch Phất: Lông chim trĩ dùng làm trang sức cho xe cho các bà mệnh phụ thời cổ. Thi kinh phần Vệ phong bài Thạc nhân có câu: “Địch phất dĩ triều” (Xe nàng có gắn lông chim trĩ đưa nàng vào chầu).
(31). Nhà vàng: Nguyên điển là Kim ốc, chỉ căn nhà đẹp. Điển này xuất xứ từ tiểu truyện Hán Vũ đế cố sự của sách Hán thư (Ban Cố): Khi Vũ đế còn là thái tử, Trưởng công chúa hỏi ngài có muốn lấy A Kiều hay không? Ngài đáp: Nếu lấy được A Kiều sẽ xây nhà vàng cho nàng ở (Nhược đắc A Kiều đương dĩ kim ốc trữ chi).
(32). Danh phận: Tiếng tăm và bổn phận.
(33). Lăng tẩm: Nơi an táng các vua và hoàng hậu.
(34). Du tử: Đây là nói tắt của điển cố Tang tử Phần du. Tang tử xuất xứ từ bài Tiểu Biền phần Tiểu Nhã của Kinh Thi: Phải cung kính với cây Tang, cây Tử. Người xưa thường trồng hai cây này dưới tường nhà để lại cho con cháu lấy lá nuôi tằm và dùng gỗ. Vì vậy dụng ý của điển khuyên con cái phải kính trọng những thứ tổ tiên để lại. Phần du xuất tứ từ phần Giao tự chí thượng sách Hán thư có ghi chép rằng: Cao tổ đảo phong phần du xã (Hán Cao Tổ làm lễ cầu phúc ở xã Phần Du ở đất Phong).Về sau văn học thường dùng điển này để ngụ ý chỉ quê hương.
(35). Miếu đường: Nơi thờ tổ tiên và các vị vua nhà Lê.
(36). Lễ Chưng Thường: Chưng là lễ tế mùa đông, Thường là lễ tế mùa thu. Đây là từ chỉ chung cho tế lễ thường niên xuân thu nhị kỳ thời xưa. Vua Quang Trung đã hạ lệnh cấm không được động chạm đến lăng tẩm, quê quán của nhà Lê, ơn sâu đó đã thấm đến từng gốc cây, ngọn cỏ. Ngài đã cho người chăm nom tế đông tế thu đầy đủ ở miếu đường, ân nghĩa đó to lớn.
(37). Hạc thược tước thoa: Hạc thược là cái chìa khóa hình con Hạc, Tước thao là cái cây thoa hình con chim sẻ, hai thứ đồ dùng của phi tần. Trong bài Lục cung tạ biểu của Giang Tổng (Thời Lục Triều) có câu: Hạc thược thần khải, tước thoa hiểu ánh (Khóa hạc sớm ở, thao sẻ năng soi).
(38). Buồng khuê: Tức khuê phòng, nơi ở của phụ nữ quý tộc.
(39). Khuôn Nội tắc: tên một thiên trong kinh Lễ, nói về đạo là vợ, lễ nghi của đàn bà con gái.
(40). Chung tư: Tên một bài thơ trong phần Chu Nam của kinh Thi, ca ngợi vua Văn Vương có nhiều con cái.
(41). Lân chỉ: Là tiếng gọi tắt tên bài thơ Lân chi chỉ trong phần Chu Nam của kinh Thi, dụng ý khen con cháu của Văn Vương là người hiền tài.
(42). Phái Lam: Một chi phái của sông Lam, ngụ ý chỉ về dòng dõi nhà hậu Lê.
(43). Diễn: Kéo dài.
(44). Thiên hoàng: Ao trời. Phiếm xưng chỉ hoàng tộc, chỉ về dòng họ của nhà vua. Các chi phái của hoàng tộc được phân chia cũng có nguồn gốc từ ao trời nên người đời sau dùng điển này để chỉ dòng dõi hậu duệ của vua. Câu này có ý là Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ đã sinh được mấy con coi như đã có hậu duệ.
(45). Đền Vị Ương: Tên cung, là biểu tượng cho trung tâm quốc gia và chính trị của triều Hán. Ở đây lấy nghĩa là “chưa hết đêm, chưa sáng” để phiếm chỉ cho cung điện của vua Quang Trung hàm ý ca ngợi đức cần chính, chuyên tâm chính sự của nhà vua.
(46). Lòng cần mẫn: chỉ sự siêng năng, chăm chỉ.
(47). Miền cực lạc: Thuật ngữ Phật giáo chỉ thế giới của chư Phật, tức cõi chết.
(48). Buồng đào: Mỹ từ, chỉ nơi ở của phụ nữ.
(49). Rơi cầm nẩy sắt: Đánh rơi đàn Cầm, đàn Sắt ý chỉ sự chia rẽ đôi đường trước sự ra đi của vua Quang Trung.
(50). Cung đỏ: Không rõ vì sao tác giả dùng tử cung đỏ, nhà Hán trong cung điện vua hay trồng cây phong, cứ đến lúc có sương thì lá đỏ, nên gọi cung vua đều ngụ ý màu đỏ cả. Trong cố điển chỉ có từ Đan trì (thềm sơn son) cũng dùng để chỉ cung vua.
(51). Thần ngự : Ngày xưa gọi nơi vua ở là Thần. Ngự: do vua làm ra, thuộc về vua hoặc cai trị, cai quản. Thần ngự vua đang cai trị, cai quản.
(52). Cảnh dương: Tên một cung của vua Vũ đế nước Tề thời Nam Bắc triều. Trên đó có đặt chuông, hàng ngày đánh thức cung nhân dậy trang điểm. Người đời sau nhân chuyện này nên lấy làm điển cố.
(53). Kết phát: Kết tóc, ý chỉ tình nghĩa vợ chồng.
(54). Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau đớn.
(55). Nhà sương: Sương là đàn bà có chồng chết, ở góa. Nhà sương là chỗ ở của đàn bà góa, ở đây ý chỉ hoàn cảnh mẹ góa con côi hiện tại của tác giả.
(56). Cung châm: Sách dạy lễ nghi, quy tắc ứng xử, nghi lễ trong cung dành cho cung phi.
(57). Chi phất: Chi là cỏ thơm, phất là dây thừng to. Lời nói, mệnh lệnh của nhà vua. Thiên Tri y trong kinh Lễ có câu:” Lệnh vua lúc nói chỉ nhỏ như sợi tơ, nhưng ra ngoài (tác dụng của nó) to như dây thừng).
(58). Hiên nguyệt: Mái hiên có ánh trăng soi.
(59). Đình chỉ: Chỉ dụ của vua đưa xuống sân chầu.
(60). Thúy hoa: (1) Đồ ban thưởng của vua. Chu Mật, một danh sĩ đời Tống trong sách Vũ lâm cựu sự phần Khiêu Thái có câu: “Ban thưởng hạng thượng phẩm có quy định là chân châu… thứ đến là đĩnh ngân, tửu khí, quan trạc, thúy hoa, đoạn bạch, long đĩnh, ngự phiến, bút mặc, cứ theo thế mà định ra các loại. (2). Cờ nhà vua. Thượng lâm phú của Tư Mã Tương Như (Từ phú gia thời Tây Hán) có câu: Kiến Thúy hoa chi kỳ (Dựng cờ thúy hoa). Cờ thúy hoa là loại cờ dùng lông chi trả để trang sức.
(61). Hang núi: tức Sơn cốc. Viết về cái chết vua Tống Thần Tông. Tống sử có đoạn chép: “Tuy ở núi sâu hang cùng không ai vừa chạy vừa la khóc như lúc an táng cha mẹ).
(62). Trâm thoa: Trang sức của phụ nữ ngày xưa. Chỉ Lê Ngọc Hân.
(63). Chân du: tức đạo quán hoặc nơi tiên cảnh theo quan niệm của Đạo giáo. Xuất xứ từ bài thơ Đăng Tiểu Mao Phong của Vương An Thạch đời Tống: “Vật ngoài đến chôn chân du mấy độ, chốn nhân gia cũng nguyện đến chốn linh thông”.
(64). Cưỡng bảo: Tã lót của trẻ em, chỉ con trẻ dưới 1 tuổi. Ở đây chỉ hai con còn thơ dại của Ngọc Hân công chúa và Quang Trung đế. Bản B, C chép là “Cường bảo”.
(65). Di thể: Hình hài còn lại. Ở đây ý chỉ hai đứa con của bà là hình thể còn lại của vua Quang Trung.
(66). Nhũ mang: chỉ 02 con thơ còn bú mớm, ẵm bồng.
(67). Bóng khích: lấy ý từ thành ngữ Bạch câu quá khích (bóng câu qua khe cửa), thiên Nguỵ Báo, Bành Việt liệt truyện trong sách Sử ký của Tư Mã Thiên có câu: Đời người trôi nhanh như ngựa Bạch câu vụt qua khe cửa). Chỉ bóng thời gian trôi qua rất nhanh.
(68). Ngự tọa: Chỗ ngồi của vua, ngai vàng.
(69). Thái Thủy: Chưa rõ nghĩa.
(70). Long xa: Xe vua.
(71). Tiên hương: làng tiên, quê tiên, chốn tiên giới, là lời kính ngữ dùng để hỏi về nguyên quán trong giao tế. Trong bài này dùng để chỉ cõi chết. Bản A, B, C dùng chữ “Thiên hương” (quê trời) cũng cùng một nghĩa chỉ cõi chết.
(72). Hoàng tuyền: Suối vàng. Trong văn hóa Trung Quốc, điển ngữ này được dùng để chỉ nơi một người mà sau khi chết sẽ về cư trú ở đó, nó cũng được gọi là âm tào địa phủ, là một trong Cửu ngục, cửu tuyền. Về mặt xuất xứ, điển cố này có nguồn gốc từ Trịnh thế gia Thập nhị của sách Sử ký, chuyện về Trịnh Trang Công (vua nước Trịnh thời Xuân Thu) và em trai Thái Thúc Đoạn.
(73). Biệt duệ: Ống tay áo trong lúc lâm biệt (chia tay). Nguồn gốc của điển này xuất phát từ câu thơ “Chuyến đi xa bắt đầu từ đây, dứt tay áo chập trùng sương giá lạnh lẽo” trong bài Thành Tây trúc viên tống Bùi Cát Vương Đạt của Lý Ích đời Đường· Trong thực tế xã hội, khi người ta tiễn nhau đi xa, thường hay nắm tay áo mà nói chuyện, lúc ròi cái tay áo ra tức là lúc phải sắp xa nhau. Vì thế, người ta dùng điển ngữ này để nói cảnh ly biệt. Bản C dùng chữ “Biệt quyết” (lời chia tay).
(74). Hoàng thủy: nước vũng. Sách Tả truyện có câu: “Rau khe, nước vũng, có thể đem cung dâng cho tước vương, tước công”. Trong câu dùng chữ đó để chỉ nước cúng.
(75). Dương gian: cõi đời, cõi sống, trần thế. Nghĩa cả câu: Kính dâng một chén rượu lạt, mong người chết thấu tỏ cho tấm lòng của người sống.
(76). Nguyễn Văn Sâm (1974), Văn học Nam Hà (văn học Đường Trong thời phân tranh), Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn.

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thiên tài tàn nhẫn

Pablo Picasso – người mà cả thế giới tôn vinh là bậc thầy của sự phá cách trong nghệ thuật, lại là một cái tên đầy mâu thuẫn khi nhắc đến đời sống riêng tư của ông, đặc biệt là với phụ nữ…

Nghe từ tâm phía quê nhà…

Cách mà nhà thơ Bạch Xuân Lộc lấy tên Vũng Nồm đặt tên cho thi tập của anh cũng là một khẳng định tình yêu với quê nhà. Vũng Nồm, đã chất đầy nơi anh bao kỷ niệm…

Ký hiệu đời tôi là một chấm xanh, xanh ngắt

Người làm thơ chỉ mượn ngôn ngữ thơ để giải bày những “rắc rối” trong tâm trạng của mình. Có lẽ vì vậy, thơ Phùng Khắc Bắc đạt đến sự giản dị mà không tầm thường của một ngòi bút…