Lửa tháp

(VNBĐ – Truyện ngắn dự thi). 

1.

Nàng nhớ cái ngày mẹ sinh Tịnh Độ. Đó cũng là ngày đầu tiên nàng đi học. Nhưng buổi chiều tan học, nàng chờ mãi mà không thấy mẹ. Cơn dông mùa hạ vội vã ào tới, tinh nghịch và hồn nhiên. Nàng đứng nép vào cổng trường. Bác bảo vệ già gục đầu ngủ quên trong tiếng mưa. Thoáng chốc, trên đường không còn một bóng người. Hai tay nàng ôm chiếc cặp xách trước ngực. Đôi bàn tay nắm chặt, hai ngón cái bấm mạnh vào ngón trỏ. Cứ lúc nào hoang mang và sợ hãi, nàng lại làm như vậy. Để cảm giác đau lan ra, từ những đầu ngón tay, tới cánh tay, rồi chạy dọc thân thể nàng. Và tất cả như tê dại đi.

Nàng đã khóc như buổi chiều đầu tiên không thấy mẹ.

Một buổi chiều cuối hạ tan ra như những viên kẹo hết hạn chảy nước vì đợi chờ.

Cũng như một buổi chiều rất xưa. Đã tan ra vì đợi chờ. Chẳng phải mưa mà đầy sương khói. Nàng đã không còn nhớ rõ khuôn mặt mẹ trong ký ức non nớt của nàng. Khuôn mặt hao khuyết qua những tháng năm, ẩn hiện trong mờ sương. Đôi mắt lạc đi như những cánh chuồn chấp chới trong mưa dông.

Nàng đứng đó, trên ngọn đồi của định mệnh, giữa những ngọn tháp loang lổ, trong chiếc áo len màu đỏ do chính mẹ đan cho nàng. Nàng đã từng nghĩ, có lẽ duy nhất màu đỏ là một sắc màu không phai theo tháng năm. Nếu chiều ấy, mẹ nàng cũng mặc áo len màu đỏ thì có lẽ nàng đã không quên ký ức về mẹ nàng như thế. Duy nhất nàng nhớ là nụ hôn mẹ đặt lên trán nàng. Nàng không nhớ trước đó mẹ đã hôn nàng bao giờ chưa. Cảm giác nụ hôn mỏng như sương, phủ lên vầng trán non tơ của nàng. Trong suốt và tan đi rất nhanh. Để đến lúc nàng bừng tỉnh sau những khói sương, thì mẹ nàng cũng tan ra.

Nàng đã khóc như buổi chiều đầu tiên không thấy mẹ.

2.

Đêm nay mưa. Và mẹ nàng cũng sẽ hòa vào cơn mưa ấy. Nàng biết mình sẽ không thể có thêm một mẹ thứ ba hay thứ tư nào khác nữa. Trước khi mẹ nàng mất, bà đã cố gắng tái hiện lại khung cảnh ngọn đồi xưa, những ngọn tháp u trầm hoang phế như những ngọn lửa chập chờn ngoi lên giữa mù sương, nơi bà đã bắt gặp nàng đứng khóc trong buổi chiều hôm ấy, để hy vọng sau này, nàng có thể theo đó mà tìm mẹ ruột. Nhưng nàng biết làm gì với ký ức lễnh loãng ấy? Đỉnh đồi cô đơn đau nhói một sắc đỏ. Miên man trôi từ quá khứ đến bây giờ.

Nàng bần thần ngồi trước bức tranh của mẹ. Như thể cứ nhìn sâu vào đó là nàng có thể xuyên không trở về khoảnh khắc xưa. Đứa bé trong tranh là nàng? Nàng chính là đứa bé trong tranh? Có lúc nàng nghĩ, nếu mình chết giấc trong khoảnh khắc ấy, như một nàng công chúa ngủ giữa đỉnh cô đơn thì đến khi tỉnh giấc, nàng có là nàng của khoảnh khắc hiện tại?

3.

Tịnh Độ có đôi mắt buồn.

Như hai giọt nước mắt trong veo đang chực chờ lăn xuống.

Mẹ bảo, con trai có đôi mắt ấy thì lụy tình lắm. Tịnh Độ cười, nụ cười cũng buồn. Có lẽ, Tịnh Độ buồn từ khi còn nằm trong bụng mẹ.

Nàng biết, năm đầu ngón tay nàng hằn in trên má Tịnh Độ đã không còn dấu vết nhưng làm sao biết được nó còn hằn in trong trái tim Tịnh Độ hay không. Tâm hồn Tịnh Độ mong manh trong một cơ thể cường tráng. Nàng biết Tịnh Độ đã lớn, biết mình chẳng thể nào còn khả năng kiểm soát được Tịnh Độ nữa. Tất cả mọi việc dường như đang chệch ra khỏi quỹ đạo. Nàng sẽ phải sắp xếp lại như thế nào đây, để có thể như tâm nguyện của mẹ trước khi ra đi?

Ngày nàng nhận lời yêu Dư, Tịnh Độ uống say. Một cậu bé 18 tuổi lần đầu uống rượu, lần đầu say, lần đầu đau, lần đầu ngác ngơ lạc lối trong những rối bời xúc cảm. Đôi mắt Tịnh Độ hóa thành những giọt nước mắt trong veo, hòa lẫn vào rượu, chất chứa những men say miên dại. Nàng giằng chai rượu từ tay Tịnh Độ. Giằng qua giằng lại, chai rượu rơi xuống nền gạch vỡ tan. Tịnh Độ cười sắc lạnh như tiếng thủy tinh vỡ. Khuôn mặt nát vụn. Tịnh Độ lớn tiếng. Trong cơn cãi vã, nàng đã thẳng tay tát Tịnh Độ. Năm đầu ngón tay nàng in trên má Tịnh Độ như năm ngọn lửa. Nàng những tưởng mình hóa thành ngọn lửa. Những mảnh thủy tinh ứa máu. Người nàng run lên. Đôi bàn tay nắm chặt, ngón cái bấm vào ngón trỏ đau đớn đến tê dại.

Căn phòng sực men cay nồng nã.

Nàng thấy mình như một giọt rượu đang chập chờn bay hơi.

Ngày nàng bị người yêu phản bội, nàng đã uống say. Nhưng Tịnh Độ không giằng chai rượu trên tay nàng. Tịnh Độ ngồi đó, để mặc cho nàng khóc, như một khối im lặng cả ngàn năm, như một miếng bọt biển kiên nhẫn hút vào mình tất thảy đớn đau.

Nàng đã khóc như buổi chiều đầu tiên không thấy mẹ.

Nhưng nàng không hay biết rằng, sau khoảnh khắc ấy, khi những dòng nước mắt của nàng đã khô cạn đến kiệt cùng, khi nàng nằm co quắp trên sô pha như một con thú bị thương đang liếm vết thương của mình, thì Tịnh Độ đã đi tìm Dư. Chẳng nói chẳng rằng, đánh Dư một trận. Bản thân Tịnh Độ cũng bị thương. Mắt mũi bầm dập, chảy máu.

4.

Mẹ nuôi kể, bà mồ côi khi chưa tròn mười tuổi.

Tuổi thơ khuyết thiếu găm vào lòng mẹ những đắng cay. Chỉ còn lại mình mẹ giữa những quay quắt của số phận. Bóp nghẹt. Nhào nặn. Quay cuồng những cơn lốc. Rồi cũng vẫn lớn lên, vẫn thành người. Mẹ nàng vẽ nên đời mình bằng những sắc màu trầm buồn, hiu hắt.

Đó là một ngày mẹ nàng đi thực tế ở một huyện miền núi xa xôi. Bà đã lạc vào những ngọn đồi trập trùng mà không có lối ra. Chiều sương giăng. Những cây dây leo quấn quýt như muôn ngàn cánh tay ma quái. Chợt những ngọn tháp nhô lên giữa đỉnh trời, như những ngọn lửa dần lụi tắt. Một đốm đỏ bùng lên trong mịt mờ sương khói. Tiếng khóc loang ra trong âm u. Dập dềnh trôi. Mẹ nàng bước đi giữa những mê man. Từng ngọn tháp ngả nghiêng, vặn xoắn. Rồi mở ra một đứa bé. Là nàng. Đôi mắt thảng thốt, ngước nhìn lên. Những giọt nước mắt đang tuôn rơi chợt ngưng đọng lại. Như một khoảnh khắc của sự vĩnh cửu. Trong suốt đến vô cùng.

Đó là khoảnh khắc mẹ bắt gặp nàng giữa tột cùng hoang mang và sợ hãi. Khi đôi tay nàng gồng lên và nắm chặt, hai ngón cái bấm vào ngón trỏ để tạo một cơn đau tê dại đến kiệt cùng. Nhưng hơi ấm từ bàn tay mẹ nàng đã xoa dịu cơn đau. Đêm ấy, mẹ con nàng đã trú chân trong lòng tháp cổ. Những con dơi đập cánh loạn xạ. Móc ngược thân mình, nhìn xuống bằng ánh mắt rùng rợn. Tượng thần Shiva vẫn lặng im trong nguồn sức mạnh của sáng tạo và hủy diệt. Đêm đặc quánh như có thể xắt ra thành từng miếng. Cảm giác nghẹt thở. Những tiếng đêm từ lòng đất vọng về. Là tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng ngựa hí vang chốn sa trường, là những bước chân hành quân tự ngàn năm hay chỉ là những tiếng gió, tiếng côn trùng nhẫn nại? Không gian xô lệch, chập chờn một vài đốm sáng…

Đêm qua. Là ảo giác. Hay một cơn mê?

Mẹ con nàng về thành phố với một ký ức hao khuyết về cái đêm định mệnh ấy. Chỉ biết, đứa trẻ mặc áo len đỏ – nàng – là một hiện hữu, một xác tín.

Mẹ đã nhặt được nàng trên đỉnh đồi mù sương, nơi âm vang tiếng vọng của quá khứ. Lịch sử nhòe nhoẹt qua những nét vẽ của mẹ nàng đọng lại trên những tấm toan. Nhưng chính mẹ cũng không nhớ về quá khứ ấy. Qua một cơn mê, tất cả dường như bị sương mù vây kín. Chỉ nhói lên một sắc đỏ cô đơn giữa những ngọn lửa sắp lụi tàn.

Mẹ mang nàng về, nhận làm con nuôi trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Ai nấy đều dị nghị, mẹ không quan tâm. Lúc ấy, người yêu của mẹ một mực đòi đưa nàng vào trại trẻ mồ côi. Mẹ không chấp nhận. Và họ chia tay. Nàng thấy mình có lỗi. Nhưng mẹ nàng không cho là như vậy. Bà nói rằng, mỗi người xuất hiện trong cuộc đời của mình đều đảm nhận một sứ mệnh. Người đàn ông đó ra đi để cho bà hiểu giá trị của tình yêu thương và lòng bao dung. Đến khi nàng gần sáu tuổi, mẹ có bầu với một người đàn ông khác. Họ chuẩn bị đám cưới nhưng đến khoảnh khắc mẹ nàng bước lên xe hoa thì người đàn ông đó đã bị tai nạn giao thông và chết trong ngày cưới. Mẹ nàng như hóa đá. Gượng dậy trong tột cùng nỗi đau.

Ngày mẹ sinh, trời cho cơn mưa gột rửa những đau buồn. Nhưng Tịnh Độ vẫn mang nỗi buồn như từ tiền kiếp.

5.

Nàng nhớ buổi chiều hôm ấy, về một cơn gió mưa quặn thắt như một cơn đau. Nàng và Tịnh Độ ngồi bên mẹ, mỗi đứa nắm lấy một bàn tay của mẹ. Bàn tay ấy dù đã nguội lạnh nhưng vẫn cố sức dồn chút hơi ấm cuối cùng sang bàn tay nàng, bởi mẹ biết nàng đang bấm ngón cái vào ngón trỏ để tìm một cơn đau. Giọng mẹ run run, lẫn vào tiếng mưa. Tịnh Độ ngơ ngác nhìn nàng rồi lại nhìn mẹ. Câu chuyện về nàng khiến Tịnh Độ quá đỗi bất ngờ. Mẹ chỉ kịp trăn trối, dù không là máu mủ nhưng hai chị em phải yêu thương nhau, nàng phải đi tìm mẹ đẻ, rồi tắt thở.

Tịnh Độ siết mạnh đôi bàn tay nàng đang gồng lên nắm chặt. Những cơn đau tê dại tràn lên lộng óc. Những đỉnh tháp – ngọn lửa dần tàn lụi nơi bức tranh mẹ nàng vẽ đang cố bùng lên, ngùn ngụt cháy trong các giác quan nàng.

Mưa xối xả không thể nào dập tắt.

Nàng đã không thể khóc như một buổi chiều xưa.

6.

Tịnh Độ!

Khi nào bình tâm, chị sẽ trở về…

Thương!

Những dòng chữ trong mẩu giấy nhỏ nhảy múa nhòe nhoẹt trước mắt Tịnh Độ. Cậu siết chặt nó trong lòng bàn tay. Nếu là chị trong lúc này, chắc đôi bàn tay ấy sẽ run lên và hai ngón cái lại bấm vào ngón trỏ để tìm đến một cơn đau lấn át mọi hoang mang và sợ hãi. Còn Tịnh Độ thì chẳng biết làm gì để tự trấn an. Một mình trong căn nhà trống trải, cậu thấy khát thèm hơi ấm của mẹ, của chị. Nhớ những cái ôm dịu dàng, Tịnh Độ gục đầu lên ngực chị và chị xoa đầu cậu như một đứa trẻ. Phải, với chị, cậu luôn là một đứa trẻ. Nhưng, Tịnh Độ đâu còn là một đứa trẻ?

Đêm nay mưa. Cũng như một đêm nào đó. Trời rút ruột nhả tơ mà chẳng thể gột rửa những muộn phiền. Tịnh Độ chưa bao giờ thấy lòng bình yên, lúc nào cũng như bị bóp nghẹt trong nỗi day dứt không thể gọi tên. Tịnh Độ thấy đời mình gắn liền với những cơn mưa, từ ngày cậu được sinh ra, như gắn liền với nước mắt chảy ngược vào trong của mẹ và của chị. Giá mà được hóa thành một giọt mưa trong suốt và tan ra.

Tịnh Độ  nhớ những đêm mưa dai dẳng. Hai căn phòng sáng đèn trong hai hơi thở câm lặng. Cậu mở hé cửa phòng chị nhưng chị không để ý, vẫn bần thần đứng trước bức tranh của mẹ. Cậu định bước vào nhưng lại thôi, bởi chẳng biết sẽ phải nói với chị điều gì. Cảm giác chống chếnh muốn được gục đầu lên  ngực chị, để chị xoa đầu như một đứa trẻ, nhưng giờ lại ngại ngùng. Dòng máu chảy trong thân thể cậu đâu phải là của chị?

Tịnh Độ cứ đứng đó. Chôn chân giữa bời bời bóng tối và tầm tã gió mưa. Hơi nước trùm phủ mặt như sương, Tịnh Độ thấy mình lạc vào đỉnh đồi cô đơn trong bức tranh của mẹ. Chỉ là một hạt sương nhẹ bẫng, đọng trên ngọn tháp nhòe nhoẹt như đốm lửa sắp lụi tàn rồi rớt xuống, tan vào đáy mắt đứa bé gái mặc chiếc áo len màu đỏ.

Những rung động từ lòng đất, âm thanh khởi nguyên từ một cõi hỗn mang nào đó tràn về. Những ngọn tháp nghiêng ngả. Tiếng khóc của đứa trẻ vang lên từ chốn âm u sâu thẳm. Tịnh Độ chớp mắt, một cơn gió tạt ngang sắc như dao. Rùng mình. Mồ hôi lạnh sống lưng. Chị vẫn đứng trước bức tranh của mẹ. Đôi vai gầy bất động như hóa thạch. Mái tóc găm đầy những mảnh đêm nát vụn. Có sợi tóc rơi xuống sàn, ánh lên như thủy tinh.

Tịnh Độ lảo đảo bước về phòng. Cậu cảm thấy mưa đang bóp nghẹt tứ bề. Cậu không thể thở. Cậu với lấy chai rượu trên nóc tủ. Từ buổi chị yêu Dư, Tịnh Độ đã biết tìm đến men say. Chẳng biết làm sao, nhưng Tịnh Độ không muốn chấp nhận sự thật ấy. Những mảnh thủy tinh vỡ vẫn hằn in trong tâm trí cậu như năm ngón tay rát bỏng của chị hằn in trên má cậu. Từ bữa ấy, Tịnh Độ lặng yên trước chị, tránh mặt chị và chỉ còn làm bạn với men say.

Không biết đêm nay, chị đang ở đâu? Liệu có về chốn tháp cổ trong ký ức hao khuyết để tìm lại một khoảnh khắc vĩnh cửu? Tất cả đã bị mất kết nối. Hiện tại này và quá khứ ấy chỉ được giằng giữ với nhau bằng một sợi tóc của chị rớt xuống sàn trong một đêm mưa.

Không biết đây đã là chai rượu thứ bao nhiêu mà Tịnh Độ uống sau cái lần đầu tiên nuốt trọn vị đắng cay. Đến bây giờ, cậu thấy uống rượu cũng như uống từng cơn mưa. Giá mà, cậu đừng sinh ra vào một chiều mưa. Giá mà nước mắt của mẹ và của chị đừng hóa thành mưa. Thì chắc giờ này, cậu cũng không uống rượu.

7.

Nàng không biết mình phải bắt đầu từ đâu trên hành trình này. Đọng lại trong ký ức chỉ là một đốm đỏ nhói lên giữa chiều mù sương. Những ngọn tháp loang lổ, những ngọn lửa dần lụi tàn sau cả ngàn năm cháy đến kiệt cùng. Nàng sẽ đi về nơi nào có tháp. Bóng tháp đổ dài theo thời gian, mòn mỏi, rữa ra cùng nắng mưa. Sau những chiều sương mù là bình minh lồng lộng nắng. Nhưng trên  xứ sở này, thiếu gì nơi có tháp? Trên những đỉnh đồi rền rĩ thanh âm của quá khứ, những tháp Chàm vẫn mải miết đổ bóng xuống nhân gian.

Minh họa: Lê Duy Khanh

Nàng đi tìm dấu chân của mẹ. Liệu dấu chân của hai người mẹ có giẫm lên nhau trong cuộc chia ly và hội ngộ? Nước mắt của họ có rớt xuống và nảy mầm trong những thớ gạch trầm u?

Người ta chỉ nàng qua sông sẽ đến tháp. Qua cánh đồng sẽ đến tháp. Qua khu rừng sẽ đến tháp. Qua đỉnh núi kia sẽ đến tháp.

Nhưng chưa ai chỉ cho nàng con đường đến tháp trên đỉnh đồi cô đơn.

Chưa ai chỉ cho nàng nụ hôn cuối cùng của mẹ trong buổi chiều sương ấy đọng lại ở chốn nào. Có lẽ, khi đến tháp, nàng sẽ phải tìm trong từng thớ gạch, xem nụ hôn có ẩn mình nơi đó, và mấy chục năm qua, liệu có còn hơi ấm hay không?

Nàng rời bỏ thành phố, đi về phía một cơn mê để tìm về một ký ức hao khuyết. Hành trang chỉ là bức tranh của mẹ đã hằn sâu trong tâm trí. Những vệt màu hoang liêu vẽ nên nỗi nhớ quay quắt về một tuổi thơ bị đánh cắp.

Qua những con đường phố thị nhằng nhịt người xe, từng tòa nhà cao tầng lặng câm đổ bóng u uất nặng nề dưới nắng. Qua những con đường ngoại ô thênh thang, trời xanh và rất xanh, những hàng cây đổ bóng tự do và thỏa mãn. Nàng nhìn bóng mình, đã đổ xuống theo những dấu chân. Nhưng chưa thấy bóng tháp. Ở đâu đó, trên con đường miên viễn này. Một chốn thâm sơn cùng cốc nào chăng?

Nàng nhớ về Dư. Giờ cũng nhạt nhòa lắm. Có những lúc tưởng như là sẽ chết đi vì tình yêu bị phản bội, nhưng cuối cùng có chết được đâu. Nàng cười bởi sự ngộ nhận của bao kẻ lạc lối trong tình yêu. Giờ không nên xếp Dư vào bất cứ một ngăn nào trong ba lô trên hành trình này.

Nàng nhớ về Tịnh Độ. Người thân duy nhất còn lại của nàng. Nhưng Tịnh Độ đã không coi nàng là người thân khi trong cuộc cãi vã hôm đó, Tịnh Độ gào thẳng vào mặt nàng, rằng, chị không phải là chị ruột của tôi thì lấy quyền gì mà dạy dỗ. Đến tận bây giờ, bàn tay nàng vẫn run lên như trong cơn sốt…

8.

Tịnh Độ bước vào phòng chị. Vẫn phảng phất một mùi hương quen thuộc. Sợi tóc chị đêm nào rớt xuống sàn vẫn nép mình nằm đó, như dài ra trong sự đợi chờ. Cậu nhìn lại bức tranh của mẹ một lần sau cùng. Một sự vẫy gọi khiến cậu không thể nào cưỡng lại. Đỉnh đồi kia, giữa muôn ngàn cây lá, rền rĩ những thanh âm của quá khứ đã hiện ra trong giấc mơ của cậu. Những ngọn tháp như lửa bùng cháy trong từng cơn mơ rát bỏng. Nơi ấy, sự sống được hoài thai, chẳng biết tự bao giờ.

Tịnh Độ phải đi về phía những cơn mơ. Tìm chị.

Trước ngày ra đi, Tịnh Độ ra mộ mẹ. Mưa đã tạnh. Những cây hoa dại đơm bông trắng bé xíu phủ trên mộ mẹ. Nắng đã lên rờ rỡ, đủ để soi chiếu những bước chân. Đôi mắt mẹ dõi theo mong chờ trong lặng yên. Ra đi để trở về. Cuộc đời ai cũng cần phải thế.

9.

Những ngọn tháp ở đây nhiều vô kể. Ngọn nào cũng giống nhau, đều tọa lạc trên những đỉnh đồi lồng lộng nắng gió, đều mang gương mặt trầm u của những thiếu phụ mòn mỏi đợi chờ. Thời gian phủ lên từng thớ gạch nước da nâu của dĩ vãng hoàng kim. Chạm tay vào mà nghe như máu rần rật chảy trong huyết quản. Lơ thơ những nhánh cây dại mọc ra từ kẽ gạch. Những đám rêu mướt mát trong màu xanh liêu tịch. Tịnh Độ thấy mình như hóa rễ từ những mẩu gạch sứt sẹo bởi nắng mưa. Giữa lòng hoang phế, nghe mình rong rêu. Tịnh Độ nhắm mắt lại để cho cơn gió tự ngàn năm thổi về ve vuốt. Thấy mình nhẹ bẫng. Ước gì như hạt sương. Để rơi xuống một chiều xưa cũ. Đọng lại trên vai áo đỏ, lặng im một dấu trầm buồn.

Tịnh Độ lại bước đi. Liệu mưa nắng có kịp bôi xóa dấu chân của mẹ và của chị? Những vết dấu thời gian có còn đọng lại, nơi mỗi bước chân Tịnh Độ đi qua? Có lúc, Tịnh Độ lại ước mình là một con kiến nhỏ, có thể ngửi được mùi của đồng loại để đi tìm.

10.

Ta vẫn đứng ngàn năm trên đỉnh dốc cô đơn. Tạo hóa bắt ta phải trường tồn khi mà thời hoàng kim của ta đã sụp đổ. Hậu thế đã khóc thương ta như khóc thương một kẻ lạc loài của lịch sử. Ta không phải là khoảnh khắc của vĩnh cửu. Ta chẳng là gì ngoài một tấm thân tàn phế. Đứng đây, gặm nhấm những mảnh quá khứ thương tật qua từng thớ gạch lở loét. Có đôi khi, ta mộng du trên tấm thân vũ nữ uốn lượn – tấm thân trinh bạch suốt cả ngàn năm, mộng du trên yên ngựa mỏi mòn, nắng, gió và khát cháy. Thần Shiva đã bay tới chốn nào? Người sáng tạo ra ta, cho ta một khởi nguyên kỳ vĩ. Nhưng rồi người đã âm thầm hủy diệt. Ta hao khuyết ngàn năm như một vầng trăng chẳng thể nào tròn. Nhìn trăng lưỡi liềm, ta cứ ngỡ là người bay đến. Nhưng than ôi! Mảnh trăng ấy chỉ như một lưỡi dao phạt ngang quá khứ, trôi từ dòng sông thánh Ganga, chảy từ mái tóc của người.

Chắc là giờ người đang cưỡi con bò mộng Nandi, đeo lên cổ con rắn Vasuki mà đi đến một nơi nào. Ta biết, người nhảy múa để sáng tạo ra thế giới và khi người mệt mỏi rơi vào bất động, vũ trụ sẽ hỗn loạn đi tới hủy diệt. Thế nên, ta khao khát được nhìn thấy vũ điệu huy hoàng của người suốt mấy trăm năm nay, vũ điệu của mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa, của quá khứ, hiện tại và tương lai.

Ta khao khát được nhìn thấy ngọn lửa bùng cháy từ con mắt thứ ba của người.

Để tái sinh ta từ những phế tích.

11.

Người đàn bà bán nước bên cầu.

Con sông ngủ quên giữa bốn bề trầm mặc. Chon von những đỉnh tháp nhô lên giữa muôn ngàn cây lá hắt bóng xuống dòng nước đìu hiu. Loang lổ âm thầm trôi về phía cuối nguồn.

Người đàn bà cũng âm thầm trôi về phía cơn mơ. Cơn mơ dệt nên từ một chiều mờ sương, trên đỉnh đồi, giữa những ngọn tháp như đám cháy đã lụi tàn. Bóng lửa đổ vào bóng nước. Đến tận bây giờ, cơn mơ ấy vẫn chưa dứt. Như con đường đi từ chiếc cầu này đến cụm tháp là một mê lộ mà chẳng ai có thể thoát ra. Chỉ có thể đợi chờ.

Người đàn bà âm thầm đếm những dấu chân. Bảy bảy bốn chín ngàn vạn dấu chân. Qua dòng sông gột rửa. Liệu dấu chân cuối cùng có nhớ dấu chân đầu tiên?

Một ngày, Tịnh Độ đến bên cầu.  Hỏi thăm người đàn bà về những ngọn tháp. Lửa đấy! Tiếng nói như vọng ra từ cơn mơ rồi tắt.

Một ngày, nàng đến bên cầu. Hỏi thăm người đàn bà về những ngọn tháp.

Đánh thức người đàn bà ra khỏi cơn mơ.

Một thoáng giật mình. Một khuôn mặt lập lờ sương. Một nụ hôn tan đi rất nhanh. Một chấm đỏ nhói lên như đốm lửa được thắp sáng từ thuở hồng hoang.

Người đàn bà nhìn theo những dấu chân của nàng. Mải miết trôi. Dấu chân nàng đã giẫm lên ngàn vàn dấu chân trước đó. Chiếc cầu đung đưa, từng nhịp cầu nghiêng ngả. Dòng sông thức dậy sau một giấc ngủ dài.

Bắt đầu những ngã rẽ. Những lối mòn chỉ có cây dại và bông xấu hổ khờ khạo tím. Những dấu chân lạc nhau cùng hướng về đỉnh đồi cô đơn. Bóng chiều đã ngả giữa hoàng hôn rực rỡ lụi tàn.

Người đàn bà bất giác đứng dậy, đi theo những dấu chân.

Gió bắt đầu thổi. Từng chùm, từng chùm, nặng trĩu.

12.

Những con đường mòn ngoằn ngoèo như một mê lộ dẫn lên đỉnh đồi. Ráng chiều đỏ ối. Từng tòa tháp hiện ra như những cột lửa cuồn cuộn. Một ngọn tháp có mái hình bông hoa mở ra vòm cổng như mũi tên lao thẳng lên đỉnh trời. Bước qua vòm cổng, qua những bậc đá nhấp nhô, sừng sững những tòa tháp đồ sộ, hùng vĩ và choáng ngợp. Từng bức phù điêu nổi lên hình voi, hổ, những vũ nữ đang uốn lượn, khỉ thần Hanuman đang múa, chim thần dang hai cánh như muốn nâng đỡ cả tòa tháp bay lên cao.

Lửa đấy! Lửa tháp! Người đàn bà thốt lên. Từng chùm gió vỡ ra thổi bùng ngọn lửa. Hoàng hôn rừng rực cháy trong gió khô khốc. Cỏ úa nát vụn. Trùm phủ lên những dấu chân.

Nước sông Côn dưới chân đồi cuồn cuộn dâng. Bỗng chốc mây đen giăng kín. Hoàng hôn lửa nguội tắt. Cơn mưa đổ xuống ràn rạt, tháp lửa bốc khói xèo xèo. Những hạt mưa đá rơi xuống, lạnh buốt. Cả ngọn đồi rung chuyển. Những bức phù điêu hoảng loạn, như muốn giẫm đạp lên nhau chạy trốn về quá khứ. Hai cánh chim thần cũng không che nổi cuồng phong.

Màn đêm u uất vây kín. Gạch, đá thở những hơi thở thương tật. Từng phế tích run lên.

Bên trong tháp chính.

Một đốm lửa nhỏ hắt bóng tượng thần Shiva. Vẫn lặng lẽ tự ngàn năm. Đôi mắt không chớp với một sức mạnh thấu suốt.

Một người con gái, mái tóc dính bết nước mưa, bờ vai mỏng đang rung lên từng cơn, đôi bàn tay gồng lên nắm chặt, ngón cái bấm vào ngón trỏ để tìm kiếm một cơn đau.

Một người thanh niên, đôi mắt buồn hòa vào đêm, mà vẫn trong veo như một giọt nước, đang ôm siết bờ vai người con gái. Bàn tay ấm nóng, vỗ về.

Một người đàn bà ngồi ở cửa tháp. Đôi chân buông thõng và đôi mắt thả vào đêm đen. Đốm lửa nhỏ leo lét trong lòng tháp như chiếc áo len đỏ nhói lên giữa chiều xưa cũ. Mưa gió táp vào mặt. Người đàn bà giơ bàn tay ra, chợt thấy như một nụ hôn từ kẽ đá rớt xuống tay mình.

13.

Nhiều năm sau.

Tại một cuộc triển lãm. Bức tranh mang tên Lửa tháp được rất nhiều người chiêm ngưỡng.

Cô họa sĩ người Mỹ gốc Việt vừa trở về quê ngoại liền kéo tay người yêu – một chàng trai nước ngoài với mái tóc vàng và đôi mắt xanh lấp lánh – chạy đến trước bức tranh rồi ngắm nghía một hồi lâu.

Cô hỏi mọi người về tác giả của bức tranh. Về đứa bé – đốm lửa – trong buổi chiều sương. Về những ngọn tháp ngoi lên như ngọn lửa sắp lụi tàn.

Người ta kể cho cô nghe về một cuộc kiếm tìm. Những con người lạc trong mê lộ dẫn đến đỉnh đồi thiêng. Có người bảo họ biến mất trong trận cuồng phong. Cũng có người bảo họ đã thoát ra và tìm đến một tương lai khác…

Cô muốn đưa người yêu mình đến đó, muốn viết tiếp câu chuyện về những ngọn lửa, âm ỉ cháy từ chiều mù sương, cháy đến cơn mưa bất tận trên đỉnh đồi cô đơn. Người yêu cô cười, bảo, không sợ bị biến mất như họ ư? Cô mỉm cười, lắc đầu: “Không, họ không biến mất. Mà họ trở về!”.

NGUYỆT CHU

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thơ dự thi của Lê Bá Duy

Tháng Mười mưa trắng núi Tình
biết phương ấy mẹ một mình dưới mưa
buồn theo cơn bão cuối mùa
phận người mỏng mảnh hơn thua được gì

Thơ dự thi của Duyên An

Về ngồi dưới cây một chiều xanh ướt vai
trăm năm chảy trong thớ vỏ
thơm hoa đại trắng
uống dạt dào mạch nước Côn giang. 

Góp lửa cùng đồng đội

Trong chiến tranh và cả trong thời bình, những người lính quân khí luôn có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, sát cánh cùng các binh chủng khác hoàn thành sứ mệnh lịch sử…