(VNBĐ – Ghi chép). Lời hát kể xa xưa, còn đó. Hiếm hoi. Lặng trong âm điệu của những nghệ nhân Bana một thời trong tiếng hơ mon bên bếp nhà sàn, những không gian sử thi hào hùng, những trận đánh giữ đất, bảo vệ chính nghĩa đã theo bóng người xưa nhẹ về mây núi, chỉ còn lại những khắc khoải xen lẫn nuối tiếc về những giá trị tinh thần…
Những nghệ nhân làng
Bốn năm trước, một lần về làng Kon Trú (xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Thạnh), bên bếp lửa bập bùng, tiếng người nghệ nhân già nằm hát kể với chất giọng khàn ấm, ngữ điệu lúc trầm lúc bổng khiến tôi mê mẩn. “Là hơ mon đấy!”, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Yang Danh ghé tai tôi, nói. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe một nghệ nhân làng hát kể hơ mon. Dẫu chẳng dịch ra được tiếng Kinh, nhưng giai điệu của hơ mon, thần sắc của vị già làng có bộ râu trắng dài chấm ngực cùng đôi mắt sâu thẳm như tạc in vào ký ức. Tôi chẳng nhớ tên nghệ nhân ấy. Khi hỏi lại, Bok Danh bảo vị già làng ấy đã về với Giàng…
Tôi về lại Vĩnh Thạnh mong nghe lại lời hơ mon từ phía những nghệ nhân ở làng.
Hơ mon còn được gọi là sử thi hay trường ca được các nghệ nhân trình bày dưới dạng hát, kể với những làn điệu âm nhạc có ngữ điệu, sắc thái, cường độ thay đổi linh hoạt theo mạch kể của câu chuyện. Hơ mon thể hiện xen kẽ văn vần với văn xuôi. Và thường, đề tài chủ yếu mà hơ mon hướng đến là về những người anh hùng. Lần tôi được nghe kể nhiều về hơ mon hơn cả là khi gặp được Bok Đoàng (ở làng M9, xã Vĩnh Hòa). Tôi từng được nghe ông hát kể hơ mon trong một đêm đông cách đây 3 năm. Đây cũng là lần thứ hai trong đời tôi được nghe một nghệ nhân Bana trực tiếp thể hiện hơ mon. Tôi nhớ như in, bài hơ mon mà Bok Đoàng hát kể ngày hôm đó có tên là Dyông Wiwin. Thiệt ra, Dyông Wiwin là tên một nhân vật anh hùng của người Bana xưa. Dyông Wiwin có sức mạnh hơn người, tài giỏi võ nghệ. Chàng trai phi thường này đã đánh bại được quái thú ba ba khổng lồ để cứu nàng tiên xinh đẹp nhất làng, trừ họa cho người dân rồi sau đó cưới nàng làm vợ. Nội dung chính bản hơ mon là thế nhưng những chi tiết về nỗi khổ đau của nàng tiên, những cuộc chiến của dân làng với quái thú, trận tử chiến của Dyông Wiwin được dẫn dắt qua lời hát kể của nghệ nhân già đầy cuốn hút, kịch tính.
Trong không gian nhà sàn, khi trời đã kéo rèm đêm đặc sánh, tiếng côn trùng vọng từ cánh đồng xa xa rỉ rả, giọng Bok Đoàng ngân lên dìu dặt, khi thúc giục, khi rủ rỉ tâm tình như dắt người nghe bước vào thuở xa xưa nào đó. Chúng tôi ngồi nghe say sưa. Có người nằm hẳn xuống vắt chân chữ ngũ, đôi mắt lim dim. Tưởng là ngủ đấy. Nhưng không. Nghe đến đoạn cao trào, người nghe mở mắt khẽ đung đưa nhịp chân ngầm tỏ bày sự thích thú. Thỉnh thoảng, mọi người rỉ tai nhau nói chuyện khe khẽ vừa đủ nghe để những thanh âm ấy không pha tạp vô câu chuyện mà Bok Đoàng đang thể hiện. Trong không gian im ắng của đêm đông, tiếng nghệ nhân già như dệt nên những không gian huyền sử một thời. Thỉnh thoảng, bếp lửa giữa nhà sàn bỗng bừng lên theo một cơn gió khẽ lùa qua ô cửa, làm phừng sáng một khoảng rọi rõ ánh mắt nghệ nhân đang đăm đắm về hướng cột nhà sàn. Bóng nghệ nhân hắt lên trên vách, mênh mang. Sau đó, nhòa dần, nhòa dần một màu nâu sẫm của bóng tối khiến cho không gian hát kể hơ mon thêm phần huyền ảo. Một số người làng sau khi nghe hơ mon xong có nói lại với tôi rằng, những nhân vật trong đêm hơ mon họ nghe kể ấy đi vào cả trong những giấc mơ của họ. Và ở nơi đó, tự trong giấc mơ, người làng Bana đã có sự giao tiếp với những nhân vật trong câu chuyện, hệt như họ đang sống trong không gian ấy. “Gặp những nhân vật như thế, mình có lo lắng không?”. Tôi từng mang câu hỏi ấy thắc mắc cùng Bok Danh. Ông cười, giải thích: “Việc nghe hơ mon và trong giấc mơ của mình gặp lại những nhân vật trong câu chuyện là bình thường. Điều ấy chứng tỏ, người nghe đã nhập tâm và theo dõi câu chuyện rất sát. Và bản hơ mon ấy cũng thực sự cuốn hút. Cũng không nên lo lắng khi trong giấc ngủ, những chuyện cũ xưa sống lại trong ta. Thậm chí, đó còn là điềm lành nữa”.
Bok Đoàng là một trong số ít những nghệ nhân hát kể hơ mon nắm giữ rất nhiều bài hơ mon của người Bana. Tiếp xúc với Bok Đoàng, tôi như hiểu thêm về hơ mon. Ông bảo, nghệ nhân hát kể hơ mon thường nằm mà hát, kể. Một nghệ nhân hơ mon thực sự phải là người có giọng hát tốt, khỏe, phải thuộc nhiều làn điệu. Đồng thời, phải biết xử lý cốt truyện, biết phân đoạn phân câu, nhuần nhuyễn câu chuyện của mình kể mà xử lý âm điệu, lấy hơi, chọn nơi luyến láy nhằm dẫn dắt câu chuyện sinh động. Thật tiếc, những vốn liếng ấy không có người trao truyền. Ngay những đứa con của ông cũng không mấy hứng thú với những câu chuyện sử thi vốn từng gắn bó máu thịt với cha mình.
Thế hệ trẻ hờ hững. Còn những người lớn tuổi đang giữ những vốn liếng nhất định về hơ mon hiện nay thì tựa như những ngọn đèn không biết khi nào cạn dầu. Niềm thắc thỏm như hằn lên đuôi mắt những nghệ nhân già tôi từng tiếp xúc, liệu còn chút gì giữ lại cho mai sau…
Còn một chút này
Nhớ hơ mon xưa, tôi trở lại Vĩnh Hòa ngày nào tìm lại người nghệ nhân cũ thì chỉ thấy căn nhà nằm im phăng phắc quạnh quẽ. Hỏi thăm bà con quanh đó thì mới hay, Bok Đoàng đã mất tự năm ngoái. Nghệ nhân Đinh Y Nam bùi ngùi nhắc nhớ: “Bok Đoàng là người có trí nhớ hơn người. Bok Đoàng hát kể hàng chục bài hơ mon mà mỗi bài một nội dung khác nhau. Ngày trước, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với ông không chỉ vì ở cùng Vĩnh Hòa, mà bởi tôi từng hỗ trợ cho anh Hà Giao ghi âm bài hơ mon của anh, và giúp anh Hà Giao dịch sang tiếng Kinh. Thật đáng tiếc, năm ngoái anh mất vì tuổi cao sức yếu. Ở Vĩnh Hòa, sau anh cũng chẳng còn ai có thể hát, kể hơ mon nữa”.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Yang Danh cho hay: “Ngày trước, nhất là những năm trước năm 1975, mỗi làng có ít nhất hai nghệ nhân hát kể hơ mon được. Bây giờ, những nghệ nhân xưa nhiều người đã mất. Số ít còn lại, người đau ốm bệnh tật, người tuổi cao. Trên toàn huyện, nghệ nhân còn khả năng hát, kể hơ mon vô cùng ít ỏi”. Hơ mon được truyền nối theo kiểu truyền miệng, có sự “tam sao thất bản” ít nhiều. Cũng một câu chuyện ấy mà mỗi vùng, mỗi người có một cách hát, kể khác nhau, nhưng cái cốt lõi của câu chuyện vẫn được nghệ nhân bao đời giữ lại. Việc lưu giữ hơ mon bằng cách dân gian truyền miệng vì thế cũng trở nên khó khăn, bởi có nhiều bài hơ mon dài mà người nghệ nhân phải hát, kể đến hai ba đêm ròng. Rất khó nhớ, khó thuộc. Hiếm hoi bài hơ mon được giữ lại qua sự kỳ công điền dã, gặp gỡ trò chuyện, nghe hát kể, ghi âm, phiên dịch của các nghệ nhân và in thành sách. Cho đến hiện tại, những hơ mon của cộng đồng Bana tại Vĩnh Thạnh chỉ được lưu giữ ít ỏi qua sách nghiên cứu về hơ mon, sử thi của nhà nghiên cứu Hà Giao. Và gần đây, là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Yang Danh với cuốn về Hơ mon Jăm Joong. Lần trở lại Vĩnh Thạnh này, tôi ngồi lại với Bok Danh khá lâu. Ông dẫn tôi rong ruổi qua các làng, giới thiệu nét đẹp văn hóa từng nơi như sợ mai mốt đây thôi, một trong số những thứ đang tồn tại kia sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhắc đến hơ mon, nhắc đến tập sách Hơ mon Jăm Joong mà ông từng kỳ công ghi âm, chuyển ngữ, nhà nghiên cứu thoáng nét trầm tư. Ông bảo, nghệ nhân Đinh Nôn, người ngày xưa từng hát kể hơ mon Jăm Joong giờ đau ốm liên miên, đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh. Khảo sát toàn bộ huyện Vĩnh Thạnh cũng chỉ còn vài ba người hát kể hơ mon. Trong đó, người hát hay, nhuần nhuyễn nhất là NNƯT Yă Xuâng ở tận Vĩnh Sơn.
Vượt đoạn đường dài lên Vĩnh Sơn, tôi gặp NNND Đinh Chương. Ông xác tín về khả năng hiếm thấy của NNƯT Yă Xuâng, bà là nữ nghệ nhân trình diễn hơ mon duy nhất của Vĩnh Thạnh được phong tặng danh hiệu NNƯT. Bản thân NNND Đinh Chương cũng biết về hơ mon nhưng ông chỉ có thể thể hiện được vài đoạn ngắn. Ông chia sẻ: “Gần chục năm nay, không gian hơ mon ở Vĩnh Sơn vắng bặt. Người giỏi hơ mon nhất Vĩnh Sơn, cũng là nghệ nhân hơ mon hàng đầu của Vĩnh Thạnh là NNƯT Yă Xuâng cũng đã rời vào nhà rẫy, sống tách bạch với làng suốt nhiều năm nay”. NNƯT Yă Xuâng tên thật là Đinh Thị H’Lên, sinh năm 1936 ở làng K2. Nhiều năm nay, hai vợ chồng bà hay ở trên nhà rẫy, cách làng K2 hơn 10 km. Ngôi nhà của bà lọt thỏm trong một thung lũng nhỏ, bao quanh là trập trùng núi đồi và những thửa ruộng nước nằm bình yên trầm mặc. Có lẽ vì quãng đường vào nhà rẫy bà khá xa, và rất lâu rồi cũng chưa ai ghé thăm nên khi thấy chúng tôi đến, bà khá bất ngờ. Bà ân cần mời khách vào nhà sàn, nhóm thêm củi vào bếp lửa còn đang hừng hực cháy. Khi nhắc đến hơ mon, bà cời lại than cho xua đi cái lạnh những ngày cuối năm. Giọng thật ấm, bà kể: “Ngay từ khi còn nhỏ, tầm mười hai mười ba tuổi tôi có theo cha mẹ lên thăm người thân ở Kbang và nghe họ hát, kể hơ mon rất cuốn hút. Không hiểu sao, nghe rồi lại cứ muốn nghe nữa. Sau nhiều lần lên xuống tôi đã học được khá nhiều bài hơ mon. Ngoài họ hàng ở Kbang, cha tôi trước đây cũng là một người hát hơ mon rất hay. Tôi cứ học mỗi người một ít như vậy, rồi nhẩm tính lại cũng gần hai mươi trường ca hơ mon”. Nói đoạn, giọng bà như chùng lại: “Giờ đây, những người từng truyền dạy cho tôi đều đã mất hết. Thì tôi cũng đã hơn tám mươi tuổi rồi mà. Trước đây, có một số người trong làng nghe tôi hát hơ mon họ ưng lắm. Có đến nghe tôi hát kể hơ mon rồi xin học luôn. Ngày ấy, tôi trình diễn hơ mon từ bảy giờ tối đến gần hai ba giờ sáng. Chợp mắt một tí, rồi tờ mờ sáng đã lên rẫy. Vậy mà chẳng thấy mệt mỏi gì. Giờ thì già mất rồi…”.
Trò chuyện một lát, bà lại nhóm thêm củi vào bếp, rồi bất chợt cất lời hát hơ mon như tiếng lòng mình chất chứa bấy lâu. Tiếng hát dìu dặt, say mê. Tôi cùng một người bạn ngồi im như pho tượng lắng nghe lời hát như hút hồn của bà. Bà bảo, hơ mon người Bana hay kể lại những câu chuyện tình yêu lứa đôi tuổi trẻ, những chuyện anh hùng giữ đất giữ làng đánh đuổi kẻ xâm lấn, có khi hơ mon của người Bana kể lại những chuyện gần gũi như chuyện đi thăm bà con, đi thăm rẫy, vào rừng… Bản thân bà biết nhiều bài hơ mon như Prăng Cắt, Mung Mol, Chum Chrai, Chom Proông… Nhiều năm trước, có bài hơ mon đã được nhà nghiên cứu Hà Giao ghi lại. Nhưng đó thuộc về số ít so với vốn hơ mon mà bà đang nắm giữ. NNƯT Yă Xuâng thổ lộ: “Hơ mon khó học lắm. Vì dài, khó nhớ. Hồi trước có người theo học một thời gian rồi thôi. Họ bảo khó, học hoài mà không hát, không kể thành bài được. Những người trẻ bây giờ cũng ít ưng hơ mon. Họ tìm đến những thứ hiện đại khác. Bao thứ nhạc xập xình đó mình không quen. Chỉ thấy hơ mon, những cái xưa cũ của ông của bà mới thực sự gần gũi với mình, những thứ ấy nó giữ mình lại. Thì đành vậy thôi chớ biết sao giờ. Mỗi thời một khác mà. Nhưng vẫn cứ thấy tiếc tiếc…”.
Gần cả cuộc đời sống với hơ mon, điều mà lâu nay Yă Xuâng chưa nguôi trăn trở, là trong bối cảnh cuộc sống có nhiều biến đổi, nhiều giá trị văn hóa cổ truyền trong đó có hơ mon đang dần bị lãng quên, mai một, không tránh khỏi nguy cơ sẽ mất đi mãi mãi. Những tâm sự của người nữ nghệ nhân hơ mon hiếm hoi còn lại như khiến chúng tôi thêm chạnh lòng.
Hơ mon rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Bana, đề cao chính nghĩa, kết nối cộng đồng. Nhưng việc trình diễn hơ mon hiện tại gần như chẳng còn. Muôn thứ tiện ích giải trí thời đại internet đã giành hết không gian mà hơ mon vốn từng tồn tại. Việc lưu giữ hơ mon hiện nay gặp không ít khó khăn, cách hữu hiệu nhất là phải lưu giữ các bản gốc hơ mon vào sách để cho thế hệ cháu con biết đến bản sắc văn hóa mà dân tộc mình từng có, nhưng chuyện này cũng chỉ được thực hiện một cách nhỏ giọt… Nhắc đến hơ mon của đồng bào Bana, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Yang Danh, tâm sự: “Chúng tôi đang tìm các nghệ nhân hiếm hoi còn lại nắm giữ các hơ mon, đặc biệt là NNƯT Yă Xuâng để nghe hát, ghi âm, phiên dịch lại. Đây là việc làm kỳ công và rất cấp thiết. Vì, nhiều nghệ nhân đã lớn tuổi và không đủ sức khỏe, sự minh mẫn để nhớ và trình diễn hơ mon. Mong rằng, các cấp các ngành văn hóa sẽ cùng chung tay với những nghệ nhân như chúng tôi bảo lưu, gìn giữ nét văn hóa độc đáo này”.
VÂN PHI
(Văn nghệ Bình Định số 92 tháng 12.2020)