(VNBĐ – Đọc sách).
1.
Cồn đến với bạn đọc như một hiển nhiên, một gắn kết khác sau những ngồi lại, những tụ bạ, cà phê hoặc “nhậu”. Nhóm đầy đủ còn nhiều hơn, nhưng tập thơ có 8 người góp mặt: Hồ Minh Tâm, Lê Trọng Nghĩa, Duyên An, Khổng Trường Chiến, Vân Phi, Trần Quốc Toàn, My Tiên, Nguyễn Đặng Thùy Trang. Mỗi tác giả tự chọn 6 bài, tự đặt cái tựa nhỏ cho phần thơ mình. Khá thú vị những Thắp của Duyên An, Nồng nàn ly đắng Lê Trọng Nghĩa, Trọ những cơn say Vân Phi, Phương trời gió loạn Trần Quốc Toàn…
Hồ Minh Tâm người Quảng Bình, vài năm nay vào công tác quản lý cơ sở phong điện ở Quy Nhơn, còn những người khác của văn nghệ Bình Định. Mỗi người một công việc nhưng thường xuyên ngồi lại với nhau vì chung niềm yêu thích văn chương. Ai đó vừa in một tập sách, một chùm thơ trên báo, một giải thưởng cuộc thi, giải thưởng hàng năm của Liên hiệp…, là ngồi lại. Một bạn văn xa ghé Quy Nhơn có nhu cầu giao lưu với các cây bút trẻ gần đây sôi nổi trên các báo, là ới nhau gặp mặt.
Cũng đã lâu rồi (những năm 90 thế kỷ trước vắt qua những năm đầu thiên niên kỷ mới), văn nghệ Bình Định có không khí đầy hứng khởi, mê say, hễ ngồi lại với nhau là khoe bài thơ mới làm, cái truyện mới in. Thế hệ chúng tôi quanh quanh Quy Nhơn gồm: Văn Trọng Hùng, Mai Thìn, Quang Vĩnh Khương, Lê Hoài Lương, sau này có Trần Văn Bạn từ An Nhơn xuống…, dù không dễ quán xá, bia bọt như bây giờ, nhưng ly rượu đế với mấy món “đưa cay” đơn giản, luôn dễ tìm. Nhà thơ Văn Trọng Hùng thường “đứng mũi chịu sào” những cuộc vui vầy vì anh là huynh trưởng, máu “đại ca” và có “điều kiện” nhất. Địa chỉ nhà anh cũng là nơi bạn văn xa tìm về, và anh em lại tụ tập. Ấy là chưa kể kẻ ăn thơ ngủ thơ Khổng Vĩnh Nguyên (Phù Cát), nhóm văn nghệ An Nhơn: Đào Viết Bửu, Trịnh Hoài Linh, Phạm Văn Phương, Nguyễn An Đình…, hễ gặp nhau là “dĩ… thơ vi tiên”.
Nhắc không khí mê văn chương một thời để nói rằng, cuộc ngồi lại đáng mừng của các bạn trẻ hôm nay cũng nằm trong truyền thống, tất cả cho văn chương, vì văn chương, mà xưa kia các vị tiền bối “Bàn Thành tứ hữu” khởi xướng.
2.
Tôi chưa có dịp gặp Hồ Minh Tâm nhưng đã đọc thơ anh trên các trang báo, tạp chí, thời bùng nổ công nghệ thông tin. Anh lập tức chinh phục tôi, không vì các giải thưởng thơ – cái thời ngay cả giải thưởng danh giá nhất cũng có dư luận như được sắp xếp nhuốm màu kim tiền. Bạn có thể kiểm chứng chất lượng tác phẩm các “đại gia” này dễ dàng. Quả nhiên, có vị cũng làng nhàng, vớ vẩn thôi: những tung tẩy, lạ hóa chữ nghĩa, những cố nống xúc cảm vào thế giới thăng hoa tùy tiện, đèm đẹp và vô nghĩa.
Hồ Minh Tâm có tố chất một thi sĩ cùng sự trải nghiệm, liên tưởng thính nhạy. Và mọi thứ cứ tự nhiên: thơ trỗi lên hát lời vi tế mà muôn trùng. Như đây, khúc đêm: “ngày tháng là lưỡi trai/ ngày tháng là lá lúa/ ngày tháng là câu liêm/ bữa ấy lưỡi liềm/ mắt hiền cứa đôi tiếng thở/ gió từ eo gió theo về/ chao mặn cái nhìn em”/…/ “chúng ta lẹm vào nhau/ lẹm vào nhau mà tròn trịa với nhau/ rồi em/ rồi anh/ rồi chúng ta/ giật mình lưỡi liềm lóe ngang bóng tối/ mây trắng lạc về ngồi đếm những gần xa” (Bài cho trăng đầu tháng). Hoặc, từ cái chớp sáng vô thanh của cánh chuồn đã có cuộc “bay” nhiều suy tưởng người: “khi con chuồn chuồn bay đi/ nó để lại đằng sau vết rách mềm lụa gió/…/ tôi không biết bay/ mỗi ngày đôi chân không dài mấy của tôi hết vấp sỏi to lại va sỏi nhỏ/ mà tỉ dụ tôi bay/ hành lý mang theo vô cùng giới hạn/ 40 ký miễn phí là cùng!/ biết đâu vịn cớ an toàn mà tôi bỏ lại một phần/ tôi” (bay). Bài thơ dài, rất hay của Hồ Minh Tâm “sống – có thể gọi nó là một bài thơ, được không?” có đoạn khái quát cô đọng của anh về thơ: “thơ sinh ra chỉ để hoàn thiện hơn về định nghĩa cái đẹp, biết thế/ tuy nhiên, không thơ cái đẹp vẫn đẹp như vốn đẹp, thơ ở trong phần không thấy được. thơ trám vào sự thiếu, vắng, bằng nguyên bản cô độc của mình”. Với thơ và người thơ như thế, sự có mặt của anh trong tập hợp nhiều tính bạn bè văn chương với nhóm tác giả trẻ Bình Định này, là một hữu duyên, đáng quý.
Lê Trọng Nghĩa đa tài. Ngoài mảng điêu khắc chủ lực anh đánh cược đời mình, âm nhạc cũng cho anh niềm đam mê, thành tựu. Và thơ. Nghĩa làm thơ, viết nhạc từ thời Áo Trắng, cứ ngỡ sau khi thành danh phần điêu khắc, anh lơ là âm nhạc và thơ. Không. Điêu khắc thường nhọc nhằn, đẫm mồ hôi lao lực trên từng sáng tạo, đã được bù sớt bằng những phút giây mơ màng, mềm mại và thăng hoa cảm xúc của thơ, nhạc. Ôm cây đàn và hát lên, ca từ là lời thơ hoặc giai điệu dẫn dắt, và một bài thơ đâu đó dần hiện. Từng đọc thơ Nghĩa trong tập Ba bờ nắng in chung với hai người bạn Áo Trắng: Triều La Vỹ, Trần Hoa Khá, rồi loáng thoáng những bài công bố gần đây, thấy thơ anh đằm sâu hơn về cảm xúc, suy tưởng. Chùm thơ anh tuyển thuần thơ tình, đó là những hoan khúc của cô đơn, ngoài tầm tay dù cận kề, là cái “nồng nàn” của “ly đắng”: “Phải xoay phía nào để được gặp em trong điều mới mẻ/…/ Xoay phía nào với vệt sáng dài cô đơn/ Để thoát ra muôn trùng nhớ” (Xoay phía nào). “Không biết buồn hay vui/ Nhưng làm mới một bài ca thật khó/ Nhìn chút ánh sáng vỗ lên cây ghi ta nhện bám/ Chợt nhận ra những yêu thương đã trượt dài theo tháng năm” (Tản mạn mùa đông). “Nếu nắm bắt được gió kia/ Thì mùi hương em đã thành thỏi trăng ngọt/…/ Nếu nắm bắt được ánh trăng/ Thì những vệt sáng thịt da đã là của anh” (Anh không nắm bắt được gì). Dù không phải thế mạnh của người nghệ sĩ đa tài này, nhưng chữ nghĩa cũng có lý khi đeo bám một tâm hồn biết ngân lên trong cô quạnh.
Duyên An làm thơ từ lúc nào không rõ nhưng khi chị xuất hiện mấy năm nay lập tức đã tạo thành giọng điệu riêng. Trong bài thơ Tương ứng, nhà thơ tượng trưng Pháp TK.19, C.P. Baudelaire – người khởi đầu của nền thơ hiện đại – đã có phát hiện về nhiều tương ứng: thiên nhiên và siêu nhiên, tinh thần và thể xác, trong đó có sự hòa điệu các giác quan trong tương ứng giữa âm thanh, màu sắc, mùi hương. Có những ảnh hưởng, vận dụng sự hòa điệu này từ thời Thơ Mới, đôi khi lộ liễu. Nhưng cái cách Duyên An cảm về sự tương liên các giác quan thật nhuần nhị, tự nhiên: nó bật ra từ “bộ lọc” tinh tế, có nghề, đượm chất thi sĩ. Thử đọc: “Ngoài vườn tiếng chim thơm mùi quả na vừa nứt vỏ/ nhả hạt đêm” (Thắp); “em cúi xuống/ vốc tháng Tư đầy vơi/ rót biếc đọt hương/ rót nâu ngực biển/ thinh không cánh diều/ ngọt lời chim trĩu cành quên lãng.// Trăng cài áo trời/ khỏa núi/ bóng thơm lòng hồ/ loang xanh” (Trên dấu môi kỷ niệm). Người cầm bút muốn trường lực cần có nền tảng tri thức lớn khi mọi kiến thức đã nhào nhuyễn thành máu thịt. Nguồn năng lượng được vun bồi thế nào chẳng rõ, nhưng những ca dao dân ca, những dòng sông bến thuyền trứ danh của Yến Lan, Nguyễn Bính đâu đó cùng ngân vọng trong một khúc sông đã nâng tầm khái quát: “Muốn sang phải bắc cầu/ Em bắc mềm mồng tơi bắc hiền yếm thắm/ Em sang sông con sáo sang sông/ Hoa đổi màu chơi vơi/ Tiếng gọi đò chìm khuất/ Gọi bạc gió ngàn lau lay ngành trăng rụng/ Gọi dọc bãi bờ lấp sông không lấp được tiếng ếch vọng nghìn năm” (Những dòng sông như đường chỉ tay). Ngoài mảng truyện thiếu nhi nhiều thành tựu, thơ Duyên An rất xứng đáng để kỳ vọng.
Tôi dành phần nhiều cho các cây bút đồng lứa. Những cây bút vừa ngoài ba mươi, hăm hở, nồng nhiệt thể hiện mình. Họ đang là làn sóng mới của văn nghệ Bình Định.
Khổng Trường Chiến khá chỉn chu trong mỗi ý tưởng, tứ thơ. Có khi bài thơ như một câu chuyện về tồn sinh, nhọc nhằn, bế tắc, vô vọng. Như đây, cảnh rừng bị truy đuổi, tận diệt: “Chiếc gùi, con chó/ ngày ngày vẫn đi theo dấu chân làng./ Cơ giới đâm rừng xẻ núi tan hoang/ Bờ taluy sâu hun hút/…/ Chiếc gùi và con chó/ ngày ngày vẫn đi/ đi xa hơn theo dấu chân của làng/…/ Tiếng gà gáy vang lên từ rừng phòng hộ/ Lán trại mọc nhanh với máy cưa, lưỡi búa và lọ sơn màu đỏ/ Không còn người cầm rựa/ chiếc gùi cùng con chó/ ngày ngày vẫn mò mẫm đi thật xa theo dấu chân của làng/ Rồi họ không về nữa” (Dấu chân của làng). Dấu chân của làng cứ lùi xa dần rồi sẽ không còn nơi để lùi. Hình ảnh chiếc gùi, con chó, người cầm rựa lầm lũi đi, cứ kiên trì tồn tại như bản chất sự sống, thật ám ảnh! Hoặc một câu chuyện khác trong bài thơ Tấm bản đồ trên lưng người đi biển viết về những người bám biển bao đời. Chính họ, mồ hôi và máu đã vẽ tấm bản đồ cương vực, lãnh thổ thiêng liêng. Chắt đọng những câu chuyện cuộc đời – câu chuyện thơ, là quý. Tôi nghĩ nếu Chiến có nhiều hơn những khoảnh khắc thăng hoa, bay bổng: thơ không chỉ mồ hôi nhọc nhằn, mà còn là những phút giây mơ màng, huyền diệu. Sẽ nhẹ nhàng hơn cho anh, cho thơ chăng?
Vân Phi đã in 2 tập thơ: Ngày mắc cạn và Gốm lưu lạc. Tôi nhắc tên hai tập thơ Vân Phi có ý: dường như từ vô thức, nhà thơ này cứ ám ảnh, mải miết những cuộc “lưu lạc”, “ly hương”, “trôi”, “mắc cạn” hoặc “trọ” vào cơn say, hoặc đi nhưng chưa biết về đâu! Cái khơi vơi xa vọng của tâm cảm là cuộc “hành” tự thân: chưa dợm bước đã trải dặm dài!
Đọc thôi: “Những con đường đưa ta về đâu/ thị thành bỏ ngải/ hun hút đồng đêm/ hun hút gió/ ai cắm câu vào ký ức/ nằng nặng bãi trăng// Người đi xa như muôn thuở/ ta chưa kịp ngoái nhìn/ bất giác thấy mình như gió/ lưu lạc lũng khuya” (Đường về). “Đêm trên đò vắng/ sào khuya treo một ánh nhìn/ qua rồi lưỡi gươm mài sắc/ sóng gợn lên dáng dấp đền đài/ dòng Hương trôi/ tuổi thơ trôi/ sao vẫn âm âm một dáng ngồi cây cỏ” (Sông ly hương). Thêm nữa nhé: “ngồi một chút/ rồi mình đi đâu nhỉ?// đi đâu đi/ đừng mua vé khứ hồi…// ta ngồi lại với ta thêm chút nữa/ nghe giọng mình/ khản đặc phía khơi vơi…” (ngồi lại…). Vân Phi là kẻ lữ hành đơn độc. Cuộc lưu lạc từ trong tâm thức này giúp thơ anh nhiều cơ hội vượt thoát những ràng rịt hiện thực, những định vị công chức. Tôi chúc anh mãi “lưu lạc”, thấu cùng tận nỗi buồn trên hành trình, để tìm thấy quê chốn nhiều hoa thơm cỏ lạ, cho thơ!
Trần Quốc Toàn là gương mặt thơ khá hiện đại. Trong thế giới thơ của Toàn có sự hòa trộn của thực tại và huyễn mộng; sự sống và những linh hồn con người, vạn vật; ký ức và tiềm thức… Không có sự vật nào, địa danh, văn hóa, sản vật nào hiện lên trong thơ không có sự chiếu rọi qua nhiều lăng kính kỳ ảo theo thế giới song hành, song trùng âm dương. Đề tài ư? Thì quê hương, làng. Ở đó có dân làng sống và chết, có bao người thân ông, bà, cha, mẹ và chị…, còn hay mất; có lịch sử, văn hóa, sản vật, truyền thuyết và tập tục… Tất cả dễ dàng đồng hiện dù cách nhau tít tắp trăm, ngàn năm – các thì của thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai không còn rạch ròi. Trên nền phông đầy sáng tạo này, mọi thứ miên man, vô hồi, không dứt. Thơ Toàn không dễ đọc. Và cũng thật gượng khi trích dẫn, vì như thế sẽ tách rời khỏi chỉnh thể đầy quyến dụ. Toàn có một lựa chọn đáng khen cho hành trình thơ mình, và sự dấn thân này sẽ giúp anh đi xa. Chờ xem.
My Tiên và Nguyễn Đặng Thùy Trang là đôi bạn cùng học cùng tham gia sáng tác trẻ mươi năm trước. Làm thơ và viết truyện ngắn. Hai tác giả này từng in chung tập thơ đầu tay Ký tự nàng, khá ấn tượng khi hai “nàng” bổ sung cho nhau: cùng bắt đầu bằng cái tôi nữ tính của mình nhưng My Tiên mạnh mẽ đến thách thức, lật trở những chiều kích khát khao yêu và sống, còn Trang nhẹ nhàng, kín đáo bộc bạch, đôi khi ẩn vào bông hoa, lá gió. Mới đây, My Tiên in tập thơ riêng Vùng da thiêng vẫn khai thác tính nữ chị từng tạo dấu ấn, nhưng tự tin đằm thắm hơn, từ dịu dàng mê đắm đến kiêu hãnh, mạnh mẽ quyết liệt. “Xin hãy treo em lên nhánh cây thông vợi/ Chẳng cần vang danh chẳng cần cất lời/ Chỉ cần anh nằm yên như trẻ nhỏ/ Em sẽ rụng trên môi anh trái chín đầu mùa” (Chiếc túi mùa thu). “Thứ lề thói cũ kỹ/ Rửa chân trong chiếc chậu đồng ngàn năm/ Tự trang sức cho mình bằng nỗi lặng câm/ Cúi xuống và nâng lên/ Những gương mặt mê cung u tối/…/ Như loài dơi treo mình để hút bóng đêm/ Nàng dâng hoa trái phụng thờ vùng da thiêng trên cơ thể” (Vùng da thiêng). My Tiên đã đúng khi tập trung cho đề tài quen thuộc nhưng không bao giờ mòn cũ. Vấn đề là cách thể hiện: cá tính, bản lĩnh và càng đằm sâu hơn. Một dấu ấn thơ nữ đáng ghi nhận.
Nguyễn Đặng Thùy Trang vẫn là một nối tiếp thời Ký tự nàng, mọi thứ cứ bằng lặng, nhẹ nhàng, tâm cảm “nàng” gắn vào thiên nhiên: con đường, hàng cây, ngôi nhà, ngọn đồi, bông hoa… Và nắng, gió. Thiên nhiên ngập tràn, đôi khi dẫn dắt cảm xúc chứ không phải sự bức thiết từ nội tâm khiến thơ phải bật lên. Có vẻ Trang không chú tập mảng thơ nhiều – chị còn viết và in các tập truyện ngắn, truyện thiếu nhi – và có thành tựu mảng này. Thơ Trang nếu in từng chùm, in chung, cái nhẹ nhàng cảm xúc, thanh thản và mơ màng ước vọng, sẽ là một bổ sung cho các hiện thực thô nhám, cho dữ dội bùng cháy… Nó như khoảng trời yên bình cần thiết. Nhưng nếu cứ mãi đều đều lan lan tâm cảm, cảnh và hồn nương nhau mà khai triển và kết thúc, không có nhấn sáng, thì là cái đều đều nhàm nhạt.
3.
Mỗi người một vẻ, Cồn là tập thơ chất lượng, nhiều ý nghĩa tích cực. Từ cách nó hình thành, cách làm. Là đối sánh hữu ích cho mỗi tác giả. Là bữa tiệc thơ nhiều món, đổi vị – một chú trọng chiều thực khách, thời thơ đầy ứ, kém chất lượng.
Sáng tác là hành trình dài, đơn độc. Nhưng những hứng khởi, cộng thông, vui vẻ tương đắc của người chung niềm yêu mê văn chương, vẫn như một nguồn doping tinh thần hữu ích. Và không gian nồng nhiệt này trên miền đất văn chương Bình Định sẽ khơi gợi nhiều cảm hứng, năng lượng mới, nhất là với thế hệ trẻ trung tràn đầy sức sáng tạo hôm nay.
06.01.2025
LÊ HOÀI LƯƠNG