(VNBĐ – Văn trẻ). – Có ai ở nhà không? Ông Vọng lại đi lạc tôi đưa về nhà rồi này.
Tôi lật đật trong nhà chạy ra vừa cảm ơn bác hàng xóm rối rít vừa đưa nội vào nhà. Nội lại cứ vùng vẫy hất tay tôi ra:
– Cháu là ai? Sao cháu cứ ép tôi vào nhà cháu?
Phải khuyên dữ lắm nội mới lại nguôi ngoai mà bước vào nhà. Nội tôi năm nay già lắm rồi, giờ cũng đã lẫn. Nội vẫn thường nhân lúc người nhà không để ý lại lang thang ra ngoài bảo tìm đường về nhà, lúc nhớ được người thân, lúc không. Nhưng mỗi khi ý thức về lại phục hồi trong phút chốc, chúng tôi luôn cảm nhận được tình thương vô bờ bến từ nội. Có nhiều lúc khi tôi đi làm về, thấy nội đương ngồi trên bậc thềm đợi tôi. Vừa thấy tôi, nội đã cất tiếng:
– Thằng Đông đi làm về rồi đấy phải không?
Đông là tên bố tôi, vì bố con tôi nom tạc nhau nên nội vẫn hay nhìn nhầm. Mà cũng thực vì bố tôi đã mất kể từ khi tôi còn đỏ hỏn. Năm ấy, khi bà vừa qua đời và rồi bố cũng ra đi vì tai nạn trong một chuyến công tác ngoài đảo xa. Vì quá đau lòng nội lên cơn tai biến rồi bắt đầu lẫn như bây giờ. Tôi không buồn vì nội cứ nhận nhầm tôi là bố vì nỗi đau của nội lớn hơn nhiều. Cũng có nhiều lúc nội nhận ra tôi, lúc ấy bằng giọng trầm buồn, nội vỗ vai tôi:
– Ông biết có nhiều lúc ông cứ nhầm mày với thằng Đông. Mày đừng buồn ông, ông vẫn luôn thương mày như thương bố mày.
Nội là một cựu chiến binh nên đôi khi những ký ức dội về trong tâm trí, nội hay kể cho tôi nghe về những năm tháng chiến trường xưa, nơi nội và các đồng đội của mình từng cùng kề vai sát cánh, vượt qua bao mưa bom bão đạn, chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, giành lại hòa bình thống nhất cho đất nước. Dù phần lớn ký ức nội đã quên đi rất nhiều. Thậm chí nhiều lúc ngay khi vừa kể xong nội lại quên béng đi những gì mình vừa kể nhưng tôi đã luôn như một chứng nhân đang xem từng thước phim ký ức năm xưa của nội một cách sống động nhất. Có nhiều hôm khi mẹ tôi ngâm ít cà pháo cho bữa ăn, mang lên cho nội, vừa nhìn thấy bát cà nội đã khóc rưng rức không nói gì. Sau mẹ nói với tôi:
– Nội nhớ đồng đội đấy, đây là một trong những món mà nội thích nhất. Cà pháo ăn kèm với rau muống luộc là những bữa ăn của nội và đồng đội trong chiến tranh.
Ký ức đôi khi cứ về từng mảnh trong cuộc sống thường nhật, những câu chuyện cứ ghép lại từng chút một như những ký ức đã trôi qua rất nhiều năm về trước. Có bận tôi thấy nội ngâm rượu, đó là thứ rượu sung rừng cay xè lại có phần hơi chát, khó uống nhưng nội lại rất thích. Cứ mỗi bữa ăn nội lại rót ra một ít, chỉ nhấp thôi, không bao giờ uống hết ly nhưng luôn có trong mỗi bữa.
– Ông xưa có một thằng bạn thân rất thích rượu này. Mà giả không có thích cũng phải thích thôi, cứ uống mãi là cũng buộc phải thích. Lúc ấy trong rừng làm gì có thứ chi khác, không mớ chuối chát cũng mớ sung.
Người đồng đội thân thiết mà nội thường hay nhắc tôi biết, đó là bác Phụng, vốn là anh nuôi trong đơn vị của nội. Nội và bác vốn ở hai quê khác nhau, người Nam người Bắc, khỏi phải nói những ngày đầu về chung đơn vị, thủ trưởng thường cắt cử hai người hết trực chung tới đi chung, đi công tác, đi dân vận lúc nào cũng đi cùng nhau. Mà tính hai người không hợp, mỗi khi cãi nhau người lại trọ trẹ tiếng Bắc, kẻ lại cứ đằng hắng giọng Nam, mâu thuẫn cứ chất chồng. Thế rồi trong một lần đi công tác, trúng ổ phục kích của địch, nội không may bị thương, bác Phụng vừa bắn trả vừa cõng đồng đội thoát khỏi vòng vây địch. Nội sợ vướng chân đồng đội, cứ nằng nặc đòi ở lại cản giặc, để bác Phụng đi trước.
“Mày đừng có nói gì nữa, mày là đồng đội của tao, bình thường cãi… cho vui chứ ai ghét mày đâu mà bỏ mày giữa sống chết như này”. Bác Phụng vừa nói vừa xốc nội lên vai, vượt qua làn đạn của địch về đơn vị an toàn. Nội nhớ nội cũng khóc rất nhiều. Sau lần đó, thi thoảng hai người vẫn… cãi nhau. Cứ mỗi khi cãi nội vẫn hay đem bình rượu sung nội tự ngâm tới để giải hòa. Nội kể, đó là ký ức nội nhớ nhất chứ giữa hai người còn có rất nhiều kỷ niệm, cũng nhiều lần vượt qua hiểm nguy cận kề cái chết, nhưng rồi cuối cùng vẫn bên nhau đến ngày thống nhất. Sau hòa bình, ai về quê nấy. Khi nội còn khỏe, nội luôn dành thời gian làm một chuyến đi xa thăm lại người đồng đội xưa. Bẵng đi rất nhiều năm, nom nội và bác đều đã yếu những chuyến thăm bắt đầu thưa dần, chiếc điện thoại trở thành phương tiện liên lạc giữa những người đồng đội cũ. Tôi cũng còn nhớ như in bác Phụng, hằng năm bác vẫn hay ghé thăm nội tôi, nhất là vào ngày hăm bảy tháng Bảy. Vừa thăm nội vừa cùng nội ghé thắp nén hương tại đền thờ liệt sĩ để tưởng nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh. Lần cuối bác ghé thăm nhà tôi chắc cũng hơn ba năm, khi ấy nội tôi không còn nhớ nhiều bác ấy là ai nữa, khi tôi cố gợi cho nội thì bác ngăn tôi:
– Không cần đâu con, bác biết anh ấy vẫn còn khỏe là được rồi. Tới là để được gặp, là để thăm cho đỡ nhớ chứ đâu cần để anh ấy biết bác là ai. Tuổi già mà, đâu ai tránh được, cũng không biết mấy lần được gặp nữa.
Khi nghe bác nói vậy, đột nhiên tôi thấy mắt nội hay háy nước. Tôi không biết nội có nhớ bác ấy hay không, chỉ nhớ buổi cơm trưa hôm ấy, nội rót cho bác một cốc rượu sung đầy… Nhưng đúng là tuổi già không chừa một ai thật, năm sau, bác Phụng mất. Khi nhận được tin báo, tôi cũng lưỡng lự không biết có nên nói với nội không. Nhưng nội đã vô tình nghe thấy:
– Thế nó đi trước tao rồi à? Thế là năm nay tao không có người uống rượu cùng rồi.
Và thời gian vẫn cứ qua đi, mỗi khi nhớ về năm xưa nội vẫn kể tôi nghe, nội vẫn cười khi nhớ về thời ấy như một sự lạc quan nhen nhóm giữa biển trời khói lửa. Tôi chắc dù đã lẫn nhưng nội vẫn nhớ về bác Phụng nhiều lắm, vì mỗi bữa cơm khi hăm bảy lại về, tôi luôn thấy nội rót một cốc rượu để phía đối diện như đang chờ một ai đó tới thăm.
LÊ HỨA HUYỀN TRÂN
(Văn nghệ Bình Định số 112 tháng 8.2022)