(VNBĐ – Nghiên cứu & Phê bình).
1.
Ngay tập truyện ngắn đầu tay Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương (2013), Nguyễn Trí đã đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi thành nhà văn Hội Trung ương. Đến nay, hơn mười năm cầm bút, ông đã in ngót 20 đầu sách, truyện ngắn, tiểu thuyết, cả truyện thiếu nhi nữa. Một sức viết đáng nể. Và đáng kể: sách được các nhà xuất bản in, phát hành. Truyện ngắn ông xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí.
Ở đâu ra nhiều ý tưởng vậy? Từ chính cuộc đời quăng quật mưu sinh khốc liệt của mình: đãi vàng, đá quý, tìm trầm, chặt củi, đốt than, nấu đường lậu, mót trộm mủ cao su, cưa kéo, đồ tể, phụ hồ, vé số, xe đạp ôm, cả dạy thêm tiếng Anh… Tất tần tật thợ “đụng”, tồn tại cùng những người dưới đáy xã hội.
Văn Nguyễn Trí để lại dấu ấn bằng ngồn ngộn chất liệu sống. Những kiếp phận tột cùng lấm láp, những sứt sẹo nhân tính; những mong manh thiên lương ấy hiện lên sống động bằng sự trải nghiệm của tác giả. Cách kể chuyện của ông độc đáo, pha trộn thoải mái lời thoại các nhân vật với tác giả, với nhập vai người đọc: nhà văn vừa bị động vừa tung tẩy giữa sống và viết bằng ngôn ngữ lầm bụi và khoái hoạt. Đó là cái duyên riêng không trộn lẫn.
Mấy năm qua ông kiếm tiền bằng việc cầm bút. Cũng kha khá. Dẫu “tiền vào nhà khó…”, nhưng lý lịch ông thêm nghề mới có vẻ cao quý: nghề văn.
Nếu cái giải thưởng sang trọng Hội Nhà văn 2013 như “từ trên trời rơi xuống”, thì các giải thưởng văn chương tiếp theo của Nguyễn Trí mọi người không mấy ngạc nhiên: Giải Nhất truyện ngắn Cuộc thi “Rừng là cuộc sống của tôi” do Tổng cục Lâm Nghiệp và báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức (2019-2020), truyện Cây bằng lăng đẫm máu; Giải B Cuộc thi tiểu thuyết “Vì an ninh Tổ quốc” (2017-2020) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, tác phẩm Diều hâu; Giải Tư tiểu thuyết 5 năm của Hội Nhà văn Việt Nam (2016-2019), tác phẩm Bụi đời thục nữ… Nói không ngạc nhiên vì tên tuổi ông đã khá “hot” nhiều năm qua trên báo, trong bạn đọc.
Nguyễn Trí sinh năm 1956 ở Bình Định, xô dạt nhiều nơi, Pleiku, Kon Tum, Sài Gòn…, nay sống Đồng Nai. Giờ đã có một ngôi nhà của mình, ngày ngày phụ vợ cái quán nhỏ “xi rô đá bào”, làm chào hàng sách, bán sách cho mình, cho người. Và viết văn, cứ đều đặn in, một năm vài cuốn. Vẫn còn trường lực lắm.
2.
Trong văn giới có chữ “bà đỡ”, “mắt xanh”, chỉ những nhà văn phát hiện cái hay, cái lấp lánh những trang viết mới vào nghề ẩn trong thô vụng. Nhà văn có tấm lòng, có trách nhiệm hoặc trao đổi cho tác giả vô danh hoàn thiện phần chưa ổn, hoặc chỉnh sửa, biên tập, “dọn dẹp” những hạt sạn là có tác phẩm độc đáo. Đôi khi chỉ một ứng xử trân trọng, một lời động viên kịp thời của người danh tiếng cũng giúp cây bút mới tự tin thể hiện mình, và đi xa. Chuyện này với văn chương nghệ thuật đất nước nào, thời nào cũng có.
Ở Việt Nam gần đây, nhiều người biết nhà văn Hồ Anh Thái là người có “nhân duyên” đỡ đầu, giới thiệu nhiều tác giả như Mạc Can (Tấm ván phóng dao), Nguyễn Vĩnh Nguyên (Năm mười mười lăm hai mươi), thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh… Nguyễn Trí cũng trong số đó: ông tìm đến nhà văn này, khi nghe người ta kể về số phận tiểu thuyết của ông hề xiếc Mạc Can. Nguyễn Trí xin địa chỉ email của Hồ Anh Thái và thử gửi một số truyện ngắn, hy vọng nếu được in trang Đại biểu Nhân dân do nhà văn này phụ trách, sẽ có ít tiền. Không ngờ, rất nhanh chóng nhận được phản hồi, và Nín lặng khóc còn được nhà văn giới thiệu in trên Tuổi trẻ cuối tuần. Mừng lắm, tờ báo có lượng độc giả lớn và nhuận bút cao. Nghĩ mình cũng có thể cầm bút, và viết như… “khùng”, một tuần đến 2 cái truyện! Khi Nhà xuất bản Trẻ tập hợp, in thành tập Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương, cuốn sách vượt qua Hội đồng văn xuôi khá lừng khừng – không phải nhà văn nào cũng tán thưởng văn Nguyễn Trí – dù sau đó Ban chung khảo nhất trí cao trao giải thưởng Hội Nhà văn năm 2014 cho ông!
Nếu không có giải thưởng như cuộc “vượt vũ môn” trong mơ này, có Nguyễn Trí hôm nay không? Vẫn có, chắc chắn. Ông kể với tôi, khi nghe tin giải thưởng, ông xách cái xe máy Trung Quốc cà tàng chạy suốt ba ngày, bất kỳ, long rong trong rừng cao su, đến nhà vài người bạn, cho thỏa nỗi mừng, rồi thôi. Sao chỉ có ba ngày? “Con người tôi vốn vậy, niềm đau trong đời tôi lớn hơn vinh quang này. Cha tôi chết, bi thiết lắm. Anh tôi chết, cũng bi thiết lắm. Anh chết, cha chết, tôi không có ở nhà. Mẹ tôi chết, khi tôi về đến nhà, nắp áo quan đã đậy rồi. Đứa con gái của tôi bị người ta đâm chết, bi thiết. Rồi đứa con trai bị ma túy, hai đứa cháu nội bị mẹ bỏ đi… Những người bạn của tôi chết trên non cao. Đó là lý do tại sao cái chết ám ảnh trong truyện tôi. Vì thế, khi được tin giải cao quý về văn chương trong nước, tôi cũng mừng nhưng đến ngày thứ ba hết mất!” (Trả lời báo Tiền Phong, 2014).
Niềm đau trong đời tôi lớn hơn vinh quang này, kiểu so sánh khập khiễng chỉ có ở… nhà văn, nhưng đáng chú ý: nó là căn nguyên những khác biệt văn và người Nguyễn Trí.
Tất nhiên, niềm vui có thể chỉ trong ba ngày – một cách ước định – nhưng cái “vinh quang” này không dừng lại: những cuộc trả lời báo chí, những “đặt hàng” các báo, các nhà xuất bản, và nhất là phải viết sao cho xứng với “tầm” nổi tiếng. Rồi trong ứng xử, quan hệ với bạn văn chung quanh: nhiều người vốn coi Nguyễn Trí là “đàn em” mới tập tành cầm bút… Cái “gánh” không nhẹ chút nào. Văn chương Việt thời này lạ lắm: nhà thơ Trần Đăng Khoa từng than rằng mấy chục năm sau vẫn phải còng lưng gánh cái thập giá khổ nạn “thần đồng” thơ tuổi nhỏ đấy thôi!
Thời gian sẽ xếp đặt lại các hỗn loạn giá trị, nhưng thường muộn hơn những mê tín, đồng bóng, cố chấp đương thời, những ngợi ca hay vứt bỏ, nhất là với cái mới, cái khác biệt trong văn chương. Nguyễn Trí là tạng nhà văn nhanh chóng rơi vào vùng xoáy khắc nghiệt này.
3.
Cuối năm 2020, Đại hội đại biểu Hội Nhà văn lần thứ X được tổ chức ở Hà Nội, Nguyễn Trí không có tên đi dự, nhưng chúng tôi đã có dịp gặp nhau ở nhà nhà văn Văn Chinh: nhân Nguyễn Trí trước đó vài ngày ra nhận giải thưởng “Lâm nghiệp”, ông mời Nguyễn Trí về nhà mình ở và hôm sau thêm mấy anh em đại biểu Bình Thuận, Bình Định, quen thân, tụ về. Cuộc khoản đãi thịnh tình, lịch lãm của chủ nhà Hà Nội khiến chúng tôi rất xúc động. Nguyễn Trí thành tâm điểm các cuộc vui, ở khả năng thuộc thơ người. Anh có trí nhớ hàng siêu, và hoạt ngôn: mấy tài vặt kể chuyện Tàu, kiếm hiệp Kim Dung, hát dân ca các vùng miền, đọc thơ giang hồ hay đọc bản tin… từng giúp ông “sống sót” trong tù, trong môi trường khốc liệt bãi vàng, đá quý, lăn lóc bụi đời…
Nhà văn Văn Chinh, người “cầm chịch” chính Cuộc thi truyện ngắn khá thành công 2018-2020 của Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm nhận xét về hai truyện ngắn dự thi của Nguyễn Trí: “Nóng bỏng và “bụi bặm” nhất có lẽ là chùm của Nguyễn Trí: Ai bảo đi tù là khổ, Có ai ở đó không. Nguyễn Trí có cách kể thật náo hoạt, đọc rất hấp dẫn; chỉ tiếc, sau sự ly kỳ hấp dẫn thì cái triết luận từ đó vẫn loanh quanh đâu đó.” Trước đó, chính Văn Chinh gọi điện mời Nguyễn Trí dự Trại sáng tác ở Sao Việt – Phú Yên và dành cho ông một biệt lệ: lấy tiền túi trả trước nhuận bút cho Nguyễn Trí tàu xe, tiêu vặt, kỳ vọng cuộc thi đa giọng điệu, xôm tụ anh tài. Thì đúng, sự góp mặt của Nguyễn Trí thêm màu sắc cuộc thi. Nhận xét tinh tế của Văn Chinh hẳn gặp sự đồng thuận lớn trong văn giới về Nguyễn Trí, không chỉ riêng hai truyện này. Cái phần “loanh quanh đâu đó” chưa bật ra, cái mà cũng có ý cho rằng tác phẩm Nguyễn Trí dường như thiếu tư tưởng – cái văn chương nhằm tới; kẻ sính chữ thường bảo “thông điệp” gì gì đó. Có thể.
Chuyện Hội đồng văn xuôi bỏ phiếu cho Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương không đạt đồng thuận cao kể trên, tôi muốn nhắc tới một trong số đó: nhà văn Sương Nguyệt Minh. Có lần ông nói với tôi và một bạn văn khác, rằng văn Nguyễn Trí “nhôm nhoam” thế nào ấy. Đó không phải chuẩn mực của văn chương, nói trắng ra, chữ nghĩa Nguyễn Trí chưa ổn. Điều đáng quý là một lần gặp nhau, chính Sương Nguyệt Minh cũng nói thẳng với Nguyễn Trí, và ông không bỏ phiếu cho vàng – đá – trầm. Tôi không lạ: Sương Nguyệt Minh là nhà văn rất chú trọng, chỉn chu chuyện chữ nghĩa; câu văn phải tinh tươm, mực thước, phải đẹp; chi tiết và hình tượng nhân vật phải đọng lại, ám ảnh… Cũng là cách viết phổ biến của nhiều nhà văn phía Bắc. Và điều này lý giải phần nào truyện Nguyễn Trí xuất hiện nhiều ở phía Nam, ít được các diễn đàn Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội… in. Bình thường thôi, thói quen và dư vị văn chương vùng miền.
4.
Nhà văn Lê Minh Khuê, một cây bút văn xuôi có tầm, điềm đạm và chừng mực nhận xét về Nguyễn Trí: “Trí miêu tả cuộc sống theo cách Trí. Bản thân Trí từng ở Bến tắm ngựa, gọi theo cách giang hồ đặt tên cho nơi tập hợp những người cực khổ nhất gầm trời. Khi gặp Trí thấy anh có khuôn mặt của người ở bến này nhưng lại có một tâm hồn rất trẻ thơ, chân thành, cởi mở, có vẻ không giấu diếm cái gì, và có cả sự bồn chồn của một người say việc. Trí đang say viết. Nhiều truyện ngắn đã được người đọc đón nhận, Trí đã là người có bến riêng trong nghề và không thể trùng lặp với ai”. Còn Hồ Anh Thái nói rõ hơn về giọng văn, chất văn Nguyễn Trí: “Văn chương tưng tửng, tung tẩy đối đáp giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với người đọc, giữa người viết với người đọc. Không cần rạch ròi phân định, bởi sự chồng mờ, chèn lấn tạo nên nhiều sắc độ hơn và mở rộng liên tưởng hơn. Nguyễn Trí đưa người đọc đi qua những cuộc đối thoại ấy, rồi cắt nghĩa từng khái niệm, cắt nghĩa từng hành vi và tâm trạng của dân giang hồ. Những bươn chải, những mưu tính, những nghĩa cử trong đám giang hồ với nhau, có lúc cuốn hút, có lúc gây hồi hộp, có lúc gây phẫn nộ hoặc khiến người đọc rưng rung. Như vậy tác phẩm của Nguyễn Trí gây hấp dẫn bằng chất sống thực và sự từng trải”.
Tôi đã nhắc nhiều nhà văn uy tín Hồ Anh Thái, Văn Chinh, Sương Nguyệt Minh, Lê Minh Khuê nhận xét về Nguyễn Trí, dù ủng hộ hay không, một hiện tượng mười năm qua của văn Việt, rất sôi động trên báo chí. Cả trên các trang văn chương mạng. Nhưng tuyệt nhiên vắng bóng các nhà phê bình tên tuổi. Họ né tránh. Không chỉ riêng trường hợp Nguyễn Trí. Họ vẫn viết, vẫn in, nhưng chủ yếu là đào xới quanh những tên tuổi nổi tiếng, đã mặc định qua thời gian. Một lựa chọn an toàn chăng?
Trường hợp Nguyễn Trí rơi vào im lặng khá điển hình cho không khí, sức sống mảng phê bình hiện nay của văn Việt. Không đáng viết à? Một năm vài cuốn sách, có bạn đọc, có dư luận, giọng văn riêng không trộn lẫn, các giải thưởng nữa…, không đáng xem xét sao? Hay là văn chương bên lề: người “dưới đáy”, người của bến tắm ngựa – tác giả và nhân vật – cũng là người kia mà? Vậy thì thế nào là trung tâm?… Và cho dù nghĩ vậy, việc né tránh của phê bình cũng là thiếu trách nhiệm. Một nền văn nghệ mà phê bình chỉ chọn lối thuận, hoặc né tránh, im lặng, thì nền văn nghệ ấy chưa thể khỏe mạnh!
5.
Tiểu thuyết Thiên đường ảo vọng kể chuyện những người sa cơ, kinh tế mới thất bát, kẻ ra tù, kẻ vượt biên bất thành, mất tiền, người yêu bị giết hiếp… gặp nhau, lập băng tìm vàng, từ Suối Bến Tỷ đến Long Mỹ, với hy vọng đổi đời, cái đời rách nát hoặc tứ cố vô thân, sứt sẹo lương tri. Và một ngàn lẻ một chuyện đời thực na ná nhau của kẻ cùng đường với thực tế sinh động bãi vàng, từ sắm dụng cụ, mua bãi, đào bổi, lắc mâm, xối máng… đến cô kết, khò lọc; từ kè hầm chống sập đến đục tầng tìm vỉa, đánh thuốc nổ phá đá tảng; từ kỹ thuật kè ta luy đến cách đưa từng bao quặng dưới âm ti lên; phí tổn và ăn chia, rượu và gái, cả hàng đen, cờ bạc bãi vàng; tình yêu nữa, giang hồ gặp tứ chiếng…; tất cả hiện lên tỉ mỉ, cụ thể với chất liệu thực hấp dẫn và phô phang. Cái kết hẳn nhiên đã được chỉ rõ ở tên sách: mộng đổi đời của hàng ngàn người đến bãi vàng chỉ là thiên đường ảo vọng! Đủ kiểu chết: sập hầm, giết cướp, đánh nhau tranh đoạt, rắn rết, sốt rét…; nếu trúng vàng cũng bị chia chác từ dân anh chị địa phương, tiêu tán vào quán xá rượu, gái; và lực lượng chức năng truy quét, tù tội… Quy luật mạnh được yếu thua nơi chỉ có “luật” bãi vàng – mạnh cơ bắp, võ nghệ, đôi khi là gan, liều mạng, nhưng cũng cần cơ trí mới chinh phục giang hồ. Những Cường Linh, Thành Võ, Tùng Hí, Ngọc Sún, Điệp, Lâm “quân sư”… hiện lên vừa đủ, liều lĩnh và hào hiệp, trượng nghĩa…; và cái kết, bãi vàng khốc liệt thành vùng đất trồng điều, kẻ đi tù về có chốn dung thân, cuộc tình Thành Võ – Bá Phượng có hậu…
À, cuộc tình. Rất nhiều cái kết của Nguyễn Trí nương vào chữ tình như tìm lối ra khỏi ma trận của chính mình. Kết thúc truyện ngắn Bãi vàng là Thành trở lại bãi gặp Dung. Kết Giã từ vàng là Minh Tàn và My, hướng về quê. Rồi giang hồ Thu Râu và người đẹp Khánh trong Đá quý…
Cũng có đúc kết, rải rác trong truyện hoặc phần cuối. Như “Đời sống chỉ có sự sống là đáng quý, nhưng dường như con người ta chỉ biết đến điều ấy khi đối diện với cái chết. Người ta sống và săn tìm tiền tài để mua địa vị và danh vọng. Chỉ những kẻ may mắn thoát lưới tử thần mới ngộ ra đời không hề phù du như những kẻ yếm thế nghĩ” (Thiên đường ảo vọng). Hoặc: “Chẳng có ai là đồ bỏ, chỉ có kẻ không tìm ra được đường đi của mình, hay bước nhầm vào vũng tối rồi không rút ra được”. Rồi: “Một lóng cây dó tầm một người ôm, dài một mét chỉ một tay là đỡ lên nhẹ nhàng, nhưng chính loại cây nầy lại cho ra một sản phẩm cực kỳ quý giá/…/ Vậy mà trầm hương lại nặng và đó là một điều kỳ diệu khác mà loài người không thể giải thích được” (Trầm hương). Hoặc: “Đừng nghĩ cát là hèn. Hãy tưởng tượng một con trai há miệng kiếm cái ăn, một hạt cát tình cờ vương lại, vậy là ra ngọc” (Đá quý). “Sau đó thì sao? Thì lâu lâu kéo vai áo xuống để cho phố thị biết một thời ngang dọc, khoác lác xong lại buồn buồn kể về con rắn hổ mang bành. Rồi kết luận tiền là tiên là Phật, nó mua được tất cả, ngăn được tất cả các dòng chảy. Cả dòng chảy của nước mắt” (Trầm hương). V.v…
Nhưng, những đúc kết hoặc triết lý này từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, chỉ vụn vặt, hay như nhà văn Văn Chinh nhận xét “chỉ loanh quanh đâu đó”.
6.
Mà sao phải có đúc kết, “thông điệp” gì to tát về nhân sinh? Chúng ta cứ mãi đọc theo thói quen chăng?
Thử điểm tên những cuốn sách của Nguyễn Trí. Truyện ngắn có: Bãi vàng Đá quý Trầm hương, Đồ tể, Ngụy, Khùng, Mạt cưa mướp đắng đường vàng, Bên kia của ánh sáng…, tiểu thuyết thì: Thiên đường ảo vọng, Ngoi lên từ đáy, Bụi đời và thục nữ, Ăn bay, Diều hâu…, ngay truyện dài thiếu nhi cũng có tên Tuổi thơ không có cánh diều. Thêm nữa nhé, tên từng truyện ngắn: Bóng tối, Đen hơn bóng tối, Bể khổ, Kể chuyện giải sầu, Trái đắng, Mì gõ vé số và cà phê đèn mờ, Nín lặng khóc, Màu của bóng tối, Buồn như cuối năm, Khóc không thành tiếng, Nỗi buồn của Linh, Những người tối suốt, Bi kịch giữa đời thường, Buồn ơi là buồn, Nỗi buồn trong mắt sâu, Nước mắt khô, Lưu vong, Người điên không biết nhớ, Cạn chén đời, Vinh Liều, Sinh nghề tử nghiệp, Tết lao cải, Lưu manh, Cây bằng lăng đẫm máu, Quỷ dịch… Nhiều nữa, rất nhiều, chỉ tuyền những tên truyện về sầu, buồn, bóng tối, say, điên, nước mắt,…, với vô vàn “chúng sinh” sống đời lăn lóc, rách nát, vất vưởng, bạt mạng, được chăng hay chớ…; chữ nghĩa khái quát là những “bi kịch giữa đời thường”… Rồi thế giới tội phạm, từ buôn lậu, xì ke, ăn bay trên tàu thời bao cấp, ăn bay những chuyến hàng đi Cam pu chia thời chiến tranh biên giới Tây Nam, đến tổ chức vượt biên, trấn lột, cướp cạn, lừa đảo, giết người…, đủ cả. Cũng có tên nhân vật, nhiều khi trở đi trở lại những Minh Tàn, Thành Võ, Hoàng, Dũng, như nguyên mẫu bạn bè và chính mình trong đời thực, nhưng chủ yếu thế giới “dưới đáy” có tên chung là “ta bà”. Thế giới này lổn ngổn, ngọ nguậy, trật trìa miếng ăn, lầm lỡ tình duyên, nghiện ngập, phạm pháp, bị cuộc sống dồn đuổi.
Nhưng họ cũng là người. Họ sẽ tồn tại theo cái cách của mình. Đơn giản, Nguyễn Trí muốn nói rằng có thế giới ấy, rất thực, thế giới ông từng thuộc về. Và đang là, ở vị thế khác.
7.
Bầy trẻ ranh tuổi học trò dính ma túy trong Quỷ dịch rồi sẽ đi về đâu? Có cách gì cứu chúng không tiếp tục sa chân vào hố thẳm hủy hoại một kiếp người và để lại những di hại xã hội? Chuyện cái “tổ quỷ” chỗ thằng Trung và đường dây cung cấp ma túy cho trường học có thể bị triệt phá, nhưng rồi ai dám chắc sẽ không có “tổ quỷ” khác mọc lên?
Những con người nhiều nghịch cảnh, những nhọc nhằn và khổ lụy để mưu sinh, cả khốc liệt tồn tại, như Thắm – Phi Hổ, Năm – Lựu Đạn: cuộc đời dồn ép họ thành quyết liệt nhưng tận thẳm sâu vẫn lấp lánh ánh thiên lương. Giọt nước mắt của Thắm, thái độ dứt khoát vạch trần cái “tổ quỷ” của ông Năm là chút ấm áp hy vọng. Cái còn đọng lại trong bạn đọc, đôi khi chỉ như một nhắc nhở rằng, đang tồn tại những con người với mảng đời lăn lóc như thế, một vấn nạn xã hội như thế.
Hoặc Cây bằng lăng đẫm máu là viết về lâm tặc, tạng trải nghiệm “phá sơn lâm, đâm hà bá”. Chuyện cứ vậy mà tuôn ra, đời sống cứ thế mà hiện lên, “tha nhân” và “chính chủ”. Nên sinh động, chân thật, cuốn hút, bằng giọng điệu riêng, rất đời, không trộn lẫn. Nhưng Cây bằng lăng đẫm máu lại được dàn dựng bằng thủ pháp của “nghề” văn: kiểu dẫn dụ “lườm rau gắp thịt”. Dụng công từ đầu qua Vị, người hướng dẫn viên du lịch am hiểu rừng, yêu rừng như máu thịt và dẫn dắt đoàn khách qua chặng đường dài rừng yên bình, thân thiện, từ “nhạc” vượn, đến những con cá sấu lành hiền, những con vắt vô hại, và bao thứ ánh sáng, hương rừng, nhạc rừng hòa hợp tuyệt diệu với con người… Để, bật lên cuối truyện tội ác của con người, bên cây bằng lăng đẫm máu. Máu người. Máu rừng. V.v…
Tôi nhặt tình cờ trong hàng trăm truyện Nguyễn Trí, để thấy, đúng là như những tiểu thuyết dài hơi Thiên đường ảo vọng, Ăn bay…, các truyện ngắn cũng không có phát hiện gì cao siêu về tư tưởng, về nhân sinh. Nó chỉ “bạch hóa” phần đời sống vốn có mọi thời, đang hiện hữu, sống động và thực đến xót xa.
8.
Nhưng sao không có tác phẩm tầm những “Chí Phèo”, “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… như một thời, bạn sẽ thắc mắc vậy chứ gì?
Thực ra hàng trăm nhân vật, cảnh đời trong văn Nguyễn Trí chỉ có một nhân vật và một cảnh dưới đáy. Sẽ dễ dàng nhận ra, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, Nguyễn Trí luôn lúng túng cái kết. Nhân vật dưới đáy sẽ có cái kết thế nào? Bị pháp luật trừng trị hoặc “ác giả ác báo”? Sẽ “quay đầu là bờ”, “buông dao thành Phật” chăng? Sẽ hoàn lương cho hợp đạo lý chăng? Sẽ tu tâm dưỡng tính, đi theo các mô hình làm giàu kiểu vượt khó, người tốt việc tốt, gương điển hình… thay đổi số phận, đầy dẫy trên báo chăng?
Các nhà phê bình thích chí trích mãi câu Chí Phèo gào lên bi phẫn “Ai cho tao lương thiện”, làm lời tố cáo xã hội thực dân phong kiến. Chị Dậu thì “Ngoài trời tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị”, cũng xã hội ấy; ông Nguyễn Tuân còn bình rằng đừng nghĩ cái kết ấy bi quan tiêu cực, mà cần khơi cái bấc đèn hiểu của mình lên là, “phải làm cách mạng” để đổi đời. Rồi cái bi – hài của Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn hay tiểu thuyết, cũng là tố cáo đanh thép xã hội chưa có cách mạng ấy… Nguyễn Trí không thể viết như thế trong dòng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, trong xã hội “ta”. Vả lại, văn chương bây giờ mà viết như bảy, tám chục năm trước chẳng ai đọc đâu. Cũng như nhân vật phải có “phản diện”, “chính diện” một thời giờ thành buồn cười, khi dù không muốn, phải thừa nhận tâm hồn người phức tạp hơn nhiều, đa diện, đa nhân cách, tốt xấu không phải lúc nào cũng rạch ròi.
Nguyễn Trí không “tố cáo”, không “ngợi ca”. Giả dụ, không “kết” theo các kiểu đường mòn kể trên, các nhân vật không theo định hướng đạo đức, phải đạo nào cả, cứ thuần bộc lộ rốt ráo nhân bản, theo quy luật sống thì sao? Dĩ nhiên, sẽ khó chấp nhận, in ấn. Hoặc từ chính lựa chọn của tác giả: tự trong thâm tâm khi cầm bút, Nguyễn Trí muốn số phận nhân vật thay đổi. Một lần nhà văn trả lời báo chí: “Thằng bạn của tôi đáng lý chết rồi nhưng ngoài đời nó chết oan ức lắm nên trong truyện của tôi, tôi không để nó chết mà cho nó sống. Tôi còn cho nhiều nhân vật được sống và được hạnh phúc nữa”.
Nguyễn Trí đã loay hoay. Cả “áp lực” in ấn khách quan và sự nhập vai, lẫn lộn đời thực – đời văn, ông có phần lúng túng và đôi lúc gượng, cuộc “thương” nhân vật của mình.
9.
Lý luận văn học về “nhân vật điển hình”, “hoàn cảnh điển hình” đương nhiên chỉ phù hợp dòng văn học hiện thực, dù “cái đuôi” là “phê phán” hay “xã hội chủ nghĩa”. Vậy văn của Nguyễn Trí thuộc dòng nào? Không lãng mạn, siêu thực, không hiện thực huyền ảo, và không mới đây – thần thực – Ngô Liêm Khoan gọi tên, mà ông rất tán thưởng tác giả này. Hay hiện đại, hậu hiện đại? Cũng không.
Có một thực tế, ngót một thế kỷ qua, văn xuôi Việt đã trải các Trường phái sáng tác: Lãng mạn, Hiện thực, Hiện đại, Hậu hiện đại… Có thành tựu rõ rệt của Tự lực văn đoàn, của Hiện thực phê phán, Hiện thực cách mạng. Văn xuôi Hiện đại từ những năm tám mươi thế kỷ trước đến nay, cũng nhiều thành tựu. Còn Hậu hiện đại chưa thật định hình. Nhiều tác giả cố gắng “lạ hóa”, thường rơi vào tạng pha trộn sống sít.
Và Nguyễn Trí bất ngờ xuất hiện. Cực kỳ sinh động đời sống thực, những người và việc, thế giới ông sống, trải nghiệm. Hấp dẫn. Mới lạ. Cuốn hút. Nguyễn Trí đã “kể” câu chuyện của mình, theo cách mình!
Nhà văn NGUYỄN TRÍ: Sinh 1956.
Quê quán Bình Định, hiện sống ở Đồng Nai. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
* Đã in: 18 tác phẩm, chủ yếu truyện ngắn, tiểu thuyết. Các tác phẩm chính: Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương (tập truyện, 2013), Đồ tể (tập truyện, 2014), Thiên đường ảo vọng (tiểu thuyết, 2015), Ngoi lên từ đáy (tiểu thuyết, 2016), Bụi đời và thục nữ (tiểu thuyết, 2017), Ăn bay (tiểu thuyết, 2018), Diều hâu (tiểu thuyết, 2020), Ma lực của cội nguồn (tiểu thuyết, 2022)…
* Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2014, tập truyện: Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương; Giải Tư tiểu thuyết 5 năm của Hội Nhà văn Việt Nam (2016-2019), tác phẩm Bụi đời thục nữ; Giải Nhất truyện ngắn Cuộc thi “Rừng là cuộc sống của tôi” do Tổng cục Lâm Nghiệp và báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức (2019-2020), truyện Cây bằng lăng đẫm máu; Giải B Cuộc thi tiểu thuyết “Vì an ninh Tổ quốc” (2017-2020) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, tác phẩm Diều hâu.
Có dòng văn học tư liệu, văn học phi hư cấu, văn học hư cấu… Nguyễn Trí ở dòng nào? Cũng không rõ rệt. Không hẳn dòng hư cấu vì chính những trải nghiệm nhiều khi như “tự truyện”, chất liệu thực chiếm tỉ trọng khá lớn, đầy thuyết phục. Nhất là cách kể chuyện độc đáo không trộn lẫn, không thể thay thế: chính một nhân vật là thế giới ta bà đã bật ra giọng kể hòa trộn, quỷ dị này. Cả hai, chất sống thực quyện hòa cách kể khiến tác giả như đang sống chứ không phải viết, thành trang văn mang giá trị riêng biệt.
Không cần gọi tên “dòng” nào cả. Nhưng đã thực có một Nguyễn Trí, với những con người ở bến tắm ngựa; với những phận người sa cơ, lầm lạc, dưới đáy xã hội.
Mùa đại dịch, 26.10.2021
LÊ HOÀI LƯƠNG
(Văn nghệ Bình Định số 107 tháng 3.2022)