Mai Văn Phấn – người lữ hành cô độc

(VNBĐ – Nghiên cứu & Phê bình). LTS: Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh 1955, tại Kim Sơn, Ninh Bình, hiện sống và sáng tác tại thành phố Hải Phòng. Ông đã xuất bản 16 tập thơ và 1 tập phê bình – tiểu luận tại Việt Nam; 24 tập thơ ở nước ngoài và trên mạng phát hành sách của Amazon. Thơ Mai Văn Phấn đã được dịch ra 33 ngôn ngữ; đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (2010) và gần 10 giải thưởng quốc tế. Bài viết này như là một hệ thống tiến trình thơ Mai Văn Phấn.

1. Thơ là một tiến trình

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, nhà thơ Mai Văn Phấn cho biết: “Tập thơ đầu tay Giọt nắng – 1992, tôi viết theo bản năng, nhằm giải tỏa tâm trạng và ám ảnh về đời sống lúc đó. Năm ấy tôi 37 tuổi, thời điểm tôi trở lại viết sau gần 20 năm đoạn tuyệt với thơ ca. Hai tập tiếp theo (Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai) kết hợp truyền thống với tâm thức hiện đại. Tập thơ Nghi lễ nhận tên và trường ca Người cùng thời là cách tôi dò dẫm, vượt thoát khỏi hệ mỹ cảm cũ. Đến Vách nước là kết hợp có chọn lọc tổng hòa những khuynh hướng hiện đại (Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện…). Năm 2009 tôi in 2 tập với 2 phong cách và khuynh hướng khác nhau. Tập Hôm sau là khuynh hướng triển khai phong cách hậu – hiện đại kiểu Việt Nam. Và, và đột nhiên gió thổi(*) thuộc cổ – điển – mới”.

Tiếp theo đó Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt(**) và thả(***), 2 tập thơ 2 câu, 3 câu,…, rồi mới nhất, trường ca Thời tái chế, Mai Văn Phấn tiếp tục tìm kiếm cách thể hiện mới cho mình. Ví như, thơ văn xuôi thời kỳ đầu của ông vẫn tuân thủ kiểu tiết nhịp, nhạc tính; thời kỳ giữa đã khác nhiều (về hình thức câu chữ, trường liên tưởng, những thi ảnh rời, biệt lập…). Huống chi đến Thời tái chế xóa nhòa ranh giới giữa thơ và văn xuôi. Đúng hơn, khởi đầu mọi diễn trình như văn xuôi, cả yếu tố đại tự sự, nhưng cứ đọc xuyên suốt, qua từng chương, dù không hề theo bố cục truyền thống vẫn thấy liên kết ngầm – một phi liên kết nghệ thuật, một sáng tạo mới của Mai Văn Phấn về trường ca. Và cái đọng lại, rốt ráo là thơ, tinh thần thơ, đồng vọng thơ. Ai đó thấy lướng vướng định dạng này cũng chả sao: tới giờ, dù luôn mong muốn có một thế hệ bạn đọc mới khác bạn đọc được nuôi dạy theo hệ thống mỹ cảm cũ, ông cũng không hề có ý viết theo thị hiếu đám đông. Ngay cả một số nhà thơ, nhà phê bình từng viết bài phản ứng, từng kêu lên “cái gọi là thơ” Mai Văn Phấn. Ông không hề băn khoăn: họ đọc theo thói quen thưởng thức cũ, và quan trọng hơn, có thể tìm tòi mới của mình chưa chinh phục được họ? Không sao cả. Bài thơ, tập thơ khi xuất hiện trước công chúng, nó phải độc lập chịu trách nhiệm, nhà thơ đã hết vai trò.

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nêu nhận xét xác đáng: “… ngay từ đầu, nhà thơ đã đi tìm. Tìm trong một xác quyết thơ phải khác. Khác với thơ hôm qua, khác với thơ hôm nay. Khác trong mỗi bài, mỗi câu. Khác với chính mình trước mỗi hành động viết thơ. Cho nên rất ít thấy thơ Mai Văn Phấn trong những cuộc điểm danh của dàn đồng ca chung về thơ”. Và: “Mai Văn Phấn đã làm bối rối người đọc thơ anh khi họ thấy anh xới tung, lật tung mọi thứ, và tưởng chừng bế tắc, lúng túng”.

Tôi chỉ nói thêm: với bạn đọc và giới phê bình, khi họ vừa kịp định dạng tạng thơ ông thì lập tức ngỡ ngàng nhận ra mình hố to. Mai Văn Phấn đã khác. Rất khác. Dù ông không hề có ý “chơi khăm” ai.

Trả lời câu hỏi có tính khuôn mẫu “Suy nghĩ về nghề văn”, Mai Văn Phấn đã thẳng toẹt: “Viết để khai sáng chính mình, được thấy mình khác những người khác”. Ông thành thật, vì hành trình thơ ông đến giờ luôn đúng như thế. Không hề to tát chút nào ý thức “khai sáng” chính mình, bởi ông từng ngưng cầm bút gần 20 năm loay hoay tìm con đường thơ, tìm kiếm cách nhận chân mình là ai; tìm đọc bao trường phái, chủ nghĩa văn chương Đông – Tây. Và cũng từng “ảnh hưởng”, dù bản năng, dù vô thức. Ví dụ, lục bát thời đầu, ý thức viết khác cách gì, vẫn đôi chỗ thấp thoáng bóng dáng Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư. Hay những “Siêu thực”, “Biểu hiện”, “Hậu hiện đại”… thời sáng tác tiếp theo còn “in dấu” trong nỗ lực theo kịp văn chương thế giới. Tức, vẫn chưa “khác những người khác”. Tất nhiên, hành trình “khai sáng” mình luôn cần kiến văn sâu rộng, nền tảng văn hóa vững chắc. Để rồi, biết rằng cứ đuổi theo các trường phái, xu thế này nọ cũng mãi lạc hậu: với văn chương, đi theo đường người khác đã đi, cả con đường thời thượng nhất cũng coi như tự phủ nhận mình – phủ nhận đặc quyền lớn lao duy nhất – cái tôi cá tính trong sáng tạo.

Với Mai Văn Phấn “cái tôi” này không dừng lại ở nhận thức, phát hiện, nâng cao, vượt lên chính mình mà là “khai sáng”: đó là quy trình ngược, một ý thức hướng tới triệt tiêu chủ thể trong sáng tạo. Văn chương mọi thời luôn được xem xét từ hai yếu tố lịch đại và đồng đại. Thì với Mai Văn Phấn, chỉ có “đương đại” của riêng ông chứ không phải xu thế chung thế giới. Và nữa, khi người phỏng vấn hỏi nôm na ý, thế nào là “thơ cũ”, “thơ đổi mới”, ông nói ngay, riết róng, “bài thơ tôi vừa viết xong là thơ cũ”. Với ông, thơ là một tiến trình chứ chưa bao giờ là cái đích hướng đến.

Thực ra, ngay khi bài thơ đã rời khỏi nhà thơ, nó cũng bắt đầu một hành trình độc lập đến với bạn đọc, cùng bạn đọc tiếp tục cuộc sống nối dài, có thể khác biệt với tác giả, chưa nói tạng thơ hiện đại hướng tới “đồng sáng tạo” trong bạn đọc, mỗi người/ lần thưởng thức là một tiếp nhận/ hưởng thụ khác biệt.

2. Hạt sương là đại dương

Một may mắn tình cờ, tôi được tiếp cận gần như xuyên suốt thơ Mai Văn Phấn. Và thấy, ngoài hành trình tìm tòi vô tận, khám phá các phương thức thể hiện, ông lại có sự nhất quán đáng ngạc nhiên trong nhận diện về thơ, về mình: tư thế người cầm bút và vị thế hoàn hảo của thơ, đó là, quy luật muôn trong một hay diễn đạt khác, hạt sương và đại dương. Xuất phát điểm quan trọng này giúp ông mở toang mọi cánh cửa không gian, thời gian, cả vấn đề bản sắc và hiện đại, tương đồng và dị biệt.

Nhưng hành trình để đến được sự nhất quán trên, ít nhất cũng ghi lại sự loay hoay vượt qua những “tạp niệm”: cái que diêm quen thuộc không hẳn là cứu cánh! Nó đã trên tay, và không có cơ hội: “Những ngón tay que diêm vừa rút ra khỏi vỏ/ Quẹt lên da trời ở rất xa/ Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua” (Trường ca Người cùng thời). Rồi nó phải trở lại, không cách nào khác: “Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối/ Con quạ khật khừ xuyên đêm/ Thảng thốt kêu/ Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại” (Biến tấu con quạ). Nhưng mãi vô vọng, que diêm dù bật rồi, ngọn bấc “còn rất xa”. Hành trình nhận thức không thể trông cậy vào que diêm – “phương tiện” có vẻ sang trọng các thi sĩ sử dụng hàng trăm năm qua. Và Mai Văn Phấn đã “tìm thấy” trong khoảnh khắc chói lòa bùng vỡ nhất của nhận thức, mà khởi, là vô thủy, vô chung: “Đâu phải từ ngàn xưa truyền lại/ Lửa vừa bén lên từ một đường bay/ Có tàn tro bắn vào ta nơi nỗi đau buốt sáng/ Sau tiếng chân chim nhẹ nhàng đậu lên sống lưng, đỉnh sọ/ Ta thấy qua ngực mình, mây xám dần trong”. Sát-na và cực đại. Cái chớp lóe mặc khải. Có thể diễn dịch bằng một liên tưởng khác không phải để so sánh: thiền giả hẳn “đi” xa hơn hành giả. Có lẽ trường ca Người cùng thời hội tụ bước chuyển lớn nhất, quyết định nhất hành trình thơ Mai Văn Phấn!

Để, khái niệm “hạt sương và đại dương” tiếp tục không dừng lại ở thấu thị “mỗi một có muôn trùng” hay ngược lại. Mai Văn Phấn đã đi xa hơn nhiều. Cổ kim Đông Tây thiên hạ thơ, loay hoay lựa chọn “ta” hay “tôi”, khách thể chủ thể, thế giới quan nhân sinh quan…, như một góc nhìn, một vin tựa; thậm chí dù có tính triết học kiểu “ngón tay” và “vầng trăng” của Đức Phật, cao siêu gì vẫn cứ là phân biệt. Quan niệm “vong thân” của Mai Văn Phấn không chỉ ở chuyện “đoạn tuyệt” với đứa con tinh thần của mình để tái sinh, mà “vong thân” từ chính mình. Khái niệm “vô minh” của nhà Phật nhiều khi khiến người sáng tạo cẩn trọng, âu lo, đề phòng. Mai Văn Phấn đã tự vỡ toang.

Nhà thơ đã biến mất. Đúng nghĩa. Ông là con chim, con cá, con sâu, con kiến, con gọng vó, con quạ…, là bông hoa, là cánh đồng, là gió, lửa, là biển, đất và nước…, là những đồ vật cái bàn, cái ghế, tấm lưới, con thuyền…, là lịch sử, thời cuộc…, là người sống và người chết, là cha mẹ, là em… Xin nhắc, không phải nhập vai, phân thân như một biện pháp nghệ thuật. Mai Văn Phấn thực sự đã là, nên không còn ranh giới, ý thức tách bạch chủ thể và thế giới. Và ông tha hồ tung tẩy. Hãy cùng đọc một số, rất tình cờ, khác nhau về thời gian, giai đoạn sáng tác, nhưng nhất quán cuộc biến thành, vượt thoát này:

Giữa em là anh/ một con hoẵng vừa sinh trên cỏ ướt/ một bát nước ngùn ngụt bốc hơi/ một thế giới đang vội vàng hoàn hảo (Nhịp IV).
Luôn nhớ em trên lưng, con sam cái khổng lồ bao trùm mặt đất. Em là đám mây trôi đi chậm chạp, bình minh rẻ quạt, con sư tử xù lông, con sóc chuyền cành thoăn thoắt. Gió lùa quẩn chân anh. Mưa mịn màng, mưa rây rây lành lạnh… Anh đang cõng bầu trời bằng đôi chân rắn chắc. Những hạt mầm tìm ra ánh sáng dưới chân anh (Những bông hoa mùa thu).

Tôi nhìn thấy trên đỉnh đồi/ Một bông cỏ may vừa nở/ Ánh sáng phát ra từ đó/ …/ Không phải nơi nào khác/ Mà chính từ bông cỏ may kia/ Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp/…/ Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó (Nơi cội nguồn thế giới).

Có thể thấy, khi đã hòa trong cảnh giới “biến hình”, thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn tha hồ biến hóa. Nó có thể diễn trình kiểu ngu ngơ nắm bắt hiện thực: “Con khướu vừa bay/ Hòa sắc hoàn hảo// Nó màu xám/ Vệt trắng hai bên má/ Ức và cằm loang đen// Tôi họa lại hình chim/ Nhẫn nại tô màu// Không phải thế/ Mãi không phải thế!” (Tĩnh lặng). Con khướu – cái hiện thực ấy, lại thành con chào mào trong câu chuyện khác, khi cuối chuyện nhà thơ đã không còn là người kể chuyện: Con chào mào đốm trắng mũ đỏ/ Hót trên cây cao chót vót/ triu… uýt… huýt… tu hìu…// Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ/ Sợ chim bay đi// Vừa vẽ xong nó cất cánh/ Tôi ôm khung nắng, khung gió/ Nhành cây xanh hối hả đuổi theo//…// Chẳng cần chim lại bay về/ Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ” (Con chào mào). Chẳng còn tách bạch “tôi” và “con chào mào”, “tiếng hót”: “tôi” đã là con chào mào, là không gian, là tiếng hót kia. Đã tràn khắp trong nhau.

Rồi trong phép “biến hình” này, với thơ, cuộc vận hành giữa nội dung và hình thức, ý tưởng, ý nghĩ và hiện thực, tinh thần thời đại, đã hoán đổi, hỗ trợ nhau thành một âm vang ám ảnh của thinh lặng: Cái miệng không phát ra tiếng động/ chỉ hiện lên một đoạn phim câm/ Tôi đã lồng vào đó tiếng gậy gộc,/ tiếng động lệnh, dự lệnh/ tiếng một người/ và cả tiếng đồng thanh// Cái miệng vẫn trôi/ Chỉ cần ai đó phát ra ý nghĩ” (Cái miệng bất tử). Rõ ràng, khi chủ thể lựa chọn “biến mất” thì hình thức câu thơ, bài thơ không thể là hình thức cũ. Nó không ngừng tìm kiếm, hội nhập, và cũng khác: hình thức không còn rạch ròi là kỹ thuật, là phương thức biểu đạt nội dung. Nó là bề mặt khác của nội dung. Và những biện pháp tu từ, những khuôn mẫu về quy cách, thể loại… dù còn hiện diện phần lớn trong sáng tác và người đọc hiện nay, đương nhiên không có cơ hội can dự vào “trường thơ Mai Văn Phấn”.

Quyết liệt cách tân, tìm tòi mới, hơn ai hết ông biết đó là lựa chọn không thuận. Bởi gần cả thế kỷ, bạn đọc – cả giới phê bình, phần đông được dạy cách sáng tác, thưởng thức, phê bình theo hệ mỹ cảm cũ. Một lần nhà thơ bộc bạch: “Thơ ca dù cách tân đến đâu vẫn phải hướng con người tới sự cao đẹp. Phẩm cách nhà thơ quyết định cốt cách thi ca. Khi đã vững tin trong cốt cách, nhà thơ không ngại lao vào bất cứ vấn đề gì, kể cả những vấn đề “vụn vặt”. Sau mấy chục năm rong ruổi “đi tìm”, khẳng định mình – cả nội dung và hình thức biểu đạt – Mai Văn Phấn in thơ 2 câu, 3 câu. Nó vẫn là một “khuôn mẫu”, hình thức cụ thể? Và rõ ràng có những “vụn vặt”. Những gì tự nhiên nhất quanh con người, đồ vật, sinh hoạt… đều vào thơ, ví dụ: Tóc còn ướt, Nghe tiếng giã giò, Nghe chuyện xích mích hàng xóm, Xem ti vi, Bị sưng khớp gối, Ngủ quên, Rang lạc buổi tối…

Tôi thấy, tập thơ 2 câu có “mã khóa” là tên các phần: Hương cúc chi, Lối đi, Vẽ bóng đêm, Tiếng sấm, Bông huệ trắng. Và đọc trong cái tổng thể từng phần, đến nhất quán toàn tập có cái âm vang. Nếu người đọc chỉ hời hợt giở lướt từng 2 câu, ví dụ: “Nhớ/ lối mòn làng rộng” * “Một mình/ rót hai ly nước” * “Tàu vào ga/ Em bé đang bú mẹ” * “Thằng bé lom khom/ Con cánh cam bay mất” * “Vòi nước/ Tiếng vỗ cánh” * “Bông huệ trắng muốt/ Tận kiếp sau”… hẳn sẽ không thể nhập vào thế giới thơ này. Với thơ 3 câu, có tít bài (như là câu thứ nhất hoặc một gợi ý). Ví dụ: “Chim sáo đá/ Nhặt/ Hạt nắng/ Gieo vào bóng râm” * “Trong vòm cây cao/ Con chim/ Hót một mình/ Trong vắt”. * “Hoa mộc lan vừa nở/ Ra vườn/ Nhắc nhau/ Bước khẽ”.* “Đồng nhất/ Chim ri kêu/ Rung hạt sương/ Tiếng sấm” * “Xác con ve/ Rơi/ Mùa hè/ Thụ phấn vào thu” * “Cây cau trước nhà/ Đóng cọc/ Vùi ánh trăng/ Xuống vườn” * “Nhầm tôi là hạt cát/ Gió/ Sượt qua/ Mấy lần” v.v…

Thêm một lần nữa, nhà thơ đã đẩy tới tận cùng tín niệm “một và muôn trùng” khi thực hành khả năng cực hạn của ngôn từ. Tối giản chữ: bài thơ chỉ có mấy từ, nhưng mở ra mênh mông diễn đạt. Bạn có thể thích hay không nhưng chắc rằng, nếu không sẵn lòng để vào không gian thơ này hoặc ghé qua hời hợt, sẽ không nhận được gì cả dù nhà thơ đã trang trọng bày biện.

Mai Văn Phấn đã rõ ràng một lộ trình, không một chút băn khoăn: lắng nghe chính mình và luôn ý thức tự phủ định. Trên nền tảng – tâm thế xuất phát và thơ – với những phẩm tính cao nhất: Hạt sương là Đại dương, Ta là Thế giới!

3. Nguồn cội

Trên hành trình hòa vào dòng chảy chung của thơ ca thế giới, nhà thơ nhận ra chân lý căn cốt: anh chỉ không trộn lẫn, nhòa nhạt khi hiện diện với bản sắc dân tộc. Nhưng bản sắc dân tộc là gì, trên ngùn ngụt mây qua ngàn năm “văn minh lúa nước”, “đánh giặc giữ nước”? Bóng dáng tổ tiên, những hiền nhân, người đã khuất; cha mẹ và làng; những cuộc chiến khốc liệt, những yên bình đầy rẫy sự biến dạng các giá trị…; và nhất là, căn tính dân tộc luôn đặt vào tổng quan hướng tới tương lai. Tất cả phải hiện lên trong ánh sáng của tình yêu, chứ không phải niềm tự hào chung chung, sáo rỗng. Chính ánh sáng minh triết này sẽ mở ra khát vọng quẫy cựa, nguồn sinh khởi hào phóng, tự do, tỉnh thức. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã thấu triệt tinh thần nguồn cội ấy trong mỗi khắc khoải, đớn đau nhận thức và “tự khai sáng”, cho mình – cũng là cho dân tộc mình, suốt chiều dài thơ ông.

Đây, từ những nhận chân thời kỳ đầu: “Mỏ nhọn con chim vừa mổ vào ban mai/ Lại lặng lẽ nằm yên trên mặt trống/…/ Hoa văn trên áng hương thờ/ Nghe trong ruột gỗ người xưa gọi thầm” (Người cùng thời). Cuộc uể oải, cam chịu, ngái ngủ suốt ngàn năm: “Nơi chó đá đầu làng vẫn sủa những con trăng/ Có tiếng gọi nghe buồn như củi ướt/ Thương quê nghèo mẹ tôi ra bến sông/ Vớt những câu ca chưa tan vào nước// Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất/ Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của mình/…/ Tấm lưới nghìn năm dằng dặc miệt mài/ Ai đã kéo sau mỗi cơn binh lửa/ Suốt đời mẹ đan những sợi ban mai âm thầm bên khung cửa/ Khi đón cha đêm đã nhạt cuối vườn// Ta kéo lưới lên từ cánh cửa vẹt mòn/ Từ tiếng chân người quờ tìm giày dép/ Những ngái ngủ, mơ hồ, ngơ ngác/ Đang lặng chìm xuống đáy bình minh” (Nhật ký đô thị). Rồi hối hả sắp xếp lại, không thể khác, vì đó là cách duy nhất để tồn tại, để hồi sinh: “Tiếng gọi vỡ không gian bình vôi/ nhàu nát cánh cò dính nhựa/ thổi căng áo mồng tơi trống mõ/ bay đi cờ phướn mở// Vỡ từng huyệt mộ/ nghiêm cẩn nhặt lên từng tiếng tổ tiên// Làng ơi!/ run tay sắp đặt lại xương cốt/ trước khi trời rạng (Làng). Và tỉnh thức: “Căng ngang trời cánh chim/ cho ngữ nghĩa trị vì mặt đất/…/ dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở/…/Vòng tay sóng khỏa rộng/ nô đùa bồng bột trẻ thơ/ mặt nước bỗng thành cổ tích/ em dựng lại mặt trời đã mất” (Đất mở). Không cần bình tán gì thêm trên từng con chữ phập phồng cảm thức Tổ quốc, dân tộc, khẩn thiết và rúng động tâm can đến thế.

Có nhận định đâu đó rằng Mai Văn Phấn né tránh những vấn đề nổi cộm hiện tại. Tôi thấy ngược lại: ánh sáng tình yêu và phẩm cách nhà thơ của ông đã chạm thấu tất cả. Chúng ta đã thấy những rốt ráo, thấu đáo thế nào căn tính dân tộc uể oải, trì đọng ngàn năm qua. Rồi, dấu ấn thời đại, thời cuộc cũng hiện rõ qua trường ca Thời tái chế, nơi, cuộc lên đồng đám đông để lại tổn thương lớn; những u mê tập thể, những quy chụp, vu khống, những đồ tể thời cuộc; những màn cảnh, trò diễn, những khao khát một ngã rẽ an toàn…, đủ cả.

Mai Văn Phấn đã nhập vào hồn vía dân tộc mình bằng ánh sáng thi ca, khởi từ tình yêu, dữ dội bóc tách, nhận diện nhưng không có chỗ cho hằn học, khích bác, thù hận. Tâm hồn nhà thơ đồng hiện cùng tinh thần dân tộc, khát vọng dân tộc. Nhà thơ đã qua bao trường phái, khuynh hướng, chủ nghĩa sáng tạo, đi qua các nền văn hóa. Đã nỗ lực để không tụt hậu. Nhưng ông biết, sự khác biệt của mỗi nhà thơ trên thế giới, tận sâu thẳm là ở bóng dáng, căn cốt dân tộc mình. Mai Văn Phấn Đi là để Trở về.

4. Vong thân

Quan niệm “Vong thân” mà nhiều lúc ông “tuyên ngôn” và giới báo chí, phê bình nhắc lại không lạ. Đó cũng là bản chất của sáng tạo. Kiểu, ngay lập tức, khi bài thơ hoàn thành, nó đã là quá khứ. Kể cả những thành tựu, từng bài thơ được ngợi khen, tập thơ được giải thưởng, đời thơ được đúc kết… Nhưng nhà thơ Mai Văn Phấn khác ở chỗ, quan niệm quen thuộc này quá riết róng. Ông “vong thân” để dấn thân. Tức sáng tạo – lại là bản chất của thuật ngữ này: không có điểm dừng, không bao giờ kết thúc!

Văn chương, dù không thể bỏ lên cân để biết sản phẩm nào nặng nhẹ, hơn thua, vẫn có tính xu thời hướng tới bạn đọc. Mai sau thế nào hẵng hay, chứ giờ được bạn đọc tán thưởng, được đương thời tung hô, vẫn tuyệt đỉnh hạnh phúc, vẫn thu gom cả danh và lợi. Mai Văn Phấn đã lựa chọn: đi qua “xu thế thời đại” và “bạn đọc” dù ông thừa hiểu viết thế nào để có đông đảo bạn đọc, được xã hội tôn vinh, được hưởng những danh – lợi trước mắt. Ông đã chọn lộ trình riết róng và gian nan nhất vì biết rằng trọng tài chính của văn chương – bạn đọc và thời gian – cũng chỉ tương đối, uyển ảo cả thôi.

Cuộc “vong thân” đã có những đền đáp xứng đáng: ông đã tạo nên không gian thơ riêng biệt cho mình. Và không gian thơ ấy đã và đang lan xa. Ông có nhiều cơ hội để tiếp tục hành trình đã lựa chọn.

5. Người lữ hành cô độc

Trên cánh đồng văn chương vô vàn những con đường, nhiều lúc người viết gặt hái được một ít hoa thơm, trái ngọt. Nhưng thường, nó như các đốm sáng lắc rắc đâu đó trong đêm, dẫn dụ người sáng tạo mải miết với hành trình đến kiệt cùng, rồi một ngày mỏi gối chồn chân chợt nhận ra, hoa trái kia chỉ là những phỉnh nịnh: thực chất nó đã tan biến vào hư không hoặc ném trả lại nguyên xi cái ảo vọng sang trọng ban đầu. Cũng chỉ là quy luật chung. Nhưng người cầm bút sẽ không thể tiếp tục cầm bút nếu không cho phép mình hy vọng, mơ ước.

Mai Văn Phấn có bạn đọc, bạn văn của mình. Thơ ông đến giờ được dịch hơn 30 ngôn ngữ quốc tế, được in hàng chục tập thơ ở nước ngoài, đoạt giải thưởng danh giá trong nước, thế giới. Hành trình thơ ông là hành trình của những giấc mơ, những khoảnh khắc các ánh chớp bắt gặp hoặc viễn kiến; hành trình của những quyết liệt lựa chọn. Với chính mình, nhà thơ Mai Văn Phấn là một người lữ hành cô độc. Trên những phù vinh và kiêu bạc!

LÊ HOÀI LƯƠNG

(Văn nghệ Bình Định số 97 tháng 5.2021)

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thơ, hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi   

Tập thơ “Tiếng của thiên lương” của Mai Thìn lôi cuốn người đọc bởi một lối viết coi ý tứ là trọng, coi tổng thể nặng hơn chi tiết và rất nặng lòng trước thế thái nhân tình…

Phê bình văn học trong “Dạo gót vườn văn”

“Dạo gót vườn văn” với 83 bài viết, bàn về nhiều thể loại thuộc lý luận – phê bình, chân dung nhà văn, chuyện làng văn nghệ, phê bình sách, bình thơ, bình luận về văn xuôi, ngôn ngữ…

Đời cần lắm, những vần thơ

Sang đến thế kỷ hai mươi, Yến Lan, chỉ mới mười sáu, mười bảy tuổi thôi, đã hóa mình thành ông lái đò với bao niềm tâm sự trong bài thơ mang mang phong vị cổ, Bến My Lăng.