Lược sử nghiên cứu phục trang, đạo cụ và mặt nạ hát Bội Bình Định

(VNBĐ – Nghiên cứu & phê bình).

1. Giai đoạn trước năm 1945
Thời trung đại, ngoài Hý trường phả lục (Lương Thế Vinh), Hý trường tùy bút lục (Ðào Tấn), chưa có công trình nào nghiên cứu phục trang, đạo cụ và mặt nạ hát Bội. Trong Hý trường tùy bút lục, Đào Tấn thể hiện những trải nghiệm qua lĩnh vực sáng tác và biểu diễn. Về mặt nạ, ông phân tích “triều Lý, tuy có thơ vịnh câu chuyện nhưng không gồm cả ca múa. Tuy có xen lẫn ca và múa nhưng không diễn câu chuyện, vì vậy không phải là tuồng, chỉ có thể gọi là thi, từ mà thôi… Diễn truyện xưa bắt đầu từ triều Trần đến Hậu Lê, Nam triều (Lê, Mạc phân tranh) gồm các tuồng về mặt nạ và bát đầu. Mặt nạ khởi phát từ đời Trần, danh tướng đời Trần là Phạm Ngũ Lão, giỏi võ khỏe mạnh lại đẹp trai, thường đeo mặt nạ để đánh giặc…, người đương thời khen ông mạnh mẽ, thường đeo mặt nạ để múa, bắt chước hình tượng của ông lúc chỉ huy đánh giặc, gọi khúc đó là Phạm tướng quân vào trận. Bắt đầu phát xuất từ Chiêm Thành, người Chiêm bị mãnh thú ăn thịt, người con giết được mãnh thú, làm một cái đầu giả trùm lên múa để tượng trưng”(1). Những luận giải trên là những thông tin vô cùng quý giá để cho các thế hệ học giả tiếp nối mạch nghiên cứu này.

Năm 1942, Sự tích và nghệ thuật hát bộ của Đoàn Nồng được ra mắt. “Tác phẩm là quyển sách bằng quốc ngữ đầu tiên khảo luận về nghệ thuật hát Bội của Việt Nam, ra đời trong sự mong đợi của giới nghiên cứu về nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam vào thập niên 1940”(2). Sau Lược khảo về tuồng hát An Nam (Đạm Phương nữ sử, 1923) trên Nam phong, và Tuồng hát An Nam (Vũ Ngọc Phan,1933) trên Revue Franco Annamite, tài liệu này có thể coi là tác phẩm đầu tiên bằng quốc ngữ hoàn chỉnh đi thẳng vào vấn đề liên quan đến hệ thống phục trang, đạo cụ và mặt nạ hát Bội. Qua phần viết về y quan, vẽ mặt, ông đã khảo cứu về mũ miện, xiêm giáp, kĩ thuật vẽ mặt. Những khảo cứu đã nêu là các chỉ xuất cho phong trào nghiên cứu về nghệ thuật phục trang, đạo cụ và mặt nạ của hát Bội Bình Định. Những khái quát của Đoàn Nồng phù hợp với ý kiến của Nguyễn Đức Hiệp: “từ hát Bội là dùng để chỉ thể loại sân khấu hát nói trong đó đào kép hóa trang nhiều son phấn, vẽ mặt và phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ lên quần áo sặc sỡ”(3).

2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Sau khi tham gia chính quyền cách mạng, Trúc Tôn Phạm Phú Tiết đã chú tâm tìm hiểu và nghiên cứu về phương diện lý luận của bộ môn nghệ thuật này qua công trình Chầu đôi. Năm 1966, khi bàn về lối vẽ mặt và xiêm y của hát Bội, Trần Văn Khải đã nhấn mạnh: “Việc vẽ mặt để đóng trò của hát Bội bắt nguồn từ thời xưa, vì hồi trước các tướng khi ra trận thường dùng mặt nạ. Trong sách Nhạc phủ tạp lục 乐府杂录 chép rằng: Dùng mặt nạ để đóng kịch sanh ra trước nhứt ở Bắc Tề (479 – 501) Lan Lăng Vương có sức mạnh, đánh giặc giỏi, nhưng nét mặt không có oai hùng, nên mỗi lần ra trận đều đeo mặt nạ, trăm trận trăm thắng… Về sau hát Bội bỏ lần việc đeo mặt nạ rất phiền và vẽ mặt bằng màu sắc để thế vào. Trong việc vẽ kiểu mặt, đại khái các màu sắc được chia ra như sau: Đỏ tươi, đỏ bầm, hồng lợt, vàng, màu vàng kim, tím, xanh da trời, xanh lá cây, xám tro, màu bạc (ngân), đen và trắng. Cũng có khi để mặt thiệt”(4) và trong “hát Bội cũng trang phục giống như các quan trong triều và cũng dùng mão, áo rộng, áo giáp, cân, đai, hia, hốt, cờ, xí và binh khí của các quan văn võ xưa…”(5). Các nhận định của Trần Văn Khải chỉ mang tính miêu tả mà chưa có những khái quát về mặt lý luận, nhưng ý kiến của ông là những đánh giá rất đáng trân trọng.

Trích đoạn Liễu Nguyệt Tiêm thượng thành trong vở Đào Phi Phụng. Ảnh: T.L

Năm 1970, trong Hát Bội (Théâtre traditionnel du Viêt Nam), Huỳnh Khắc Dụng có những yếu tố hợp lý trong việc tiếp nhận, mô phỏng đồ y quan Trung Quốc. Ông nhấn mạnh “ở Việt Nam, người ta vào rạp hát không phải chỉ để ngắm quần áo đẹp mà thôi, người ta cố ý đi nghe giọng hát và xem điệu bộ kịch sĩ…”(6). Tuy nhiên, ông đã có thống kê kĩ các nội dung này trong sách như là một cách minh họa cho sự đa dạng phong phú của nghệ thuật hát Bội. Năm 1972, trong Tìm lại hương xưa qua nghệ thuật hát Bội, Vũ Duy Khoan đã nghiên cứu cụ thể về Khí cụ, y trang và hóa trang của nghệ thuật trình diễn hát Bội. Về khí cụ, tác giả nhấn mạnh: “Nói về phần trình diễn của hát Bội, ngoài điệu bộ được coi là nòng cốt, nhưng không vì thế mà không bàn đến các loại khí cụ của hát Bội. Khí cụ của hát Bội thì rất tầm thường nhưng sự chạm trổ của nó hết sức cầu kì và tinh vi… Theo sự hiểu biết của kẻ viết, khí cụ cổ truyền (thuần túy Việt Nam) được thể hiện trên sân khấu hát Bội gồm 5 món, mỗi món có một cách xử dụng riêng biệt. Đó là đao, kiếm, thương, hốt và doãn…”(7). Bàn về y trang, ông viết: “Đề cập đến y trang, tức là bàn về cách phục sức của diễn viên trên sân khấu hát Bội là một vấn đề nan giải vì nhiều lý do kê sau: Mỗi bộ y phục đều mang một tên riêng xa lạ với người đọc, khiến người đọc khó có thể nghiền ngẫm… danh từ của những y phục ấy vì xưa cũ, nhiều khi thất lạc, không tìm được sự đích xác chứng minh”(8) và để minh định những vấn đề đã nêu, ông đã lấy y trang của vở tuồng San hậu làm điểm quy chiếu. Phần được trình bày và nghiên cứu kĩ nhất là hóa trang. Hơn 40 trang viết được tác giả mô tả tỉ mỉ những vấn đề của hóa trang mặt nạ. Ông đi sâu bàn bạc những vấn đề liên quan đến hóa cụ, màu sắc, cách thức, bố cục và kĩ thuật vẽ mặt trong hát Bội ở khu vực Bình Định. Ông khẳng định chính “sự khéo léo và tiểu xảo, nghề riêng có thể biến khuôn mặt hóa trang cứng nhắc, cố hữu trở nên linh động, có thần…”(9). Theo chúng tôi, tính đến trước năm 1975, chỉ có Vũ Duy Khoan là người nghiên cứu và bàn luận về phục trang, đạo cụ và mặt nạ một cách bài bản. Những chỉ dẫn quan trọng nêu trên là cơ sở để tập trung khảo sát trong phạm vi hát Bội Bình Định.

3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Trong Thư mục tư liệu về Đào Tấn (1985), nhóm soạn giả đã dẫn lại lời của Đào Sư Nhượng, cháu nội của Đào Tấn qua lời kể của bà Chi Tiên (con gái Đào Tấn) như sau: “Ngoài việc căn dặn kịch sĩ chú ý đến cách hát và diễn, cụ còn lo về áo mão cho đào kép. Kép đội “cân” (như Khổng Minh đội luân cân, hề đội mũ võng cân, quan hưu trí đội viên ngoại cân, quân lính đội võ anh cân); Mão (mũ): tiều phu đội thảo mạo, vai lão đội phong mạo, vai vua đội hoàng đế quan. Đào đội mũ cửu phụng; Áo: Kép mặc áo gấm, áo chít vai (vai tiên), tướng thì mặc giáp. Đào mặc áo rộng tay ở trong, ngoài có áo lá dài tới đầu gối, dưới thì mặc cái xiêm; chân của kép thì mang hia, đào thì mang hài…”(10).

Năm 1991, quyển Nghệ thuật hóa trang mặt nạ trong sân khấu hát Bội(11) được ấn hành. Đây là tập tài liệu mang tính truyền thông và giới thiệu nét đặc sắc về nghệ thuật hóa trang của sân khấu hát Bội truyền thống. Năm 1995, trong Nghệ thuật hát Tuồng(12), Hồ Đắc Bích cho rằng, nghệ thuật hát Bội thuở ban sơ diễn viên dùng mặt nạ “đeo” vì thuở ấy, người có khả năng biểu diễn không nhiều, một diễn viên phải sắm nhiều vai, vì vậy, họ dùng mặt nạ đeo để thay đổi vai cho dễ dàng.

Hóa trang nhân vật Trương Phi (tuồng Cổ thành). Ảnh: T.L

Theo NSND Hòa Bình, ngay từ thời Đào Tấn, đã không còn diễn mặt nạ. Người ta thay mặt nạ đeo bằng mặt vẽ, và mới đây, người ta dùng cách hóa trang để chân thật hơn, gần cuộc sống hơn. Màu sắc dùng để hóa trang kiểu mặt nạ phổ biến là trắng hồng, màu đỏ và màu mốc. Cố NSND Nguyễn Lai đã đúc kết ra một số hình ảnh mẫu hóa trang thành các loại mặt: mặt trắng (diện mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc), mặt rằn (diện mạo xấu xí, tính cách nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay xanh là người vũ dũng), mặt mốc (nịnh), mặt lưỡi cày (người đoản hậu, nhát gan). Trong công trình Đặc trưng nghệ thuật Tuồng (1996), nhà nghiên cứu Mịch Quang cho rằng có hai loại mặt nạ đáng lưu ý nhất là mặt trắng và mặt rằn. Theo ông, sự sáng tạo ra hai loại mặt này là một nguyên tắc của mỹ học Tuồng. Các nghệ nhân Tuồng (hát Bội) vốn đã chú ý đến cái đẹp của hành động chứ không phải cái đẹp diện mạo. Bởi có mặt trắng phe trung như Địch Thanh, Hứa Hớn Văn thì cũng có mặt trắng phe nịnh như Lữ Bố, Lý Thông, có vai mặt rằn trung như Lưu Khánh, Trương Phi, thì cũng có mặt rằn nịnh như Tạ Ôn Đình, Xích Bảo…

Hóa trang nhân vật Quan Công (tuồng Cổ thành). Ảnh: V.C

Trong quyển Sổ tay thưởng thức hát Bội (1995)(13), Huỳnh Ngọc Trảng cũng đã có những nội dung nghiên cứu về phục trang và mặt nạ hát Bội khá kĩ lưỡng. Ông đã giúp cho người đọc có được những hình dung khá quan trọng về nghệ thuật tượng trưng, cách điệu trong biểu diễn Tuồng. Cùng với Sổ tay thưởng thức hát Bội, Từ điển nghệ thuật hát Bội Việt Nam chính là những tư liệu có tính lý luận và khảo cứu quan trọng về lịch sử phục trang, đạo cụ và mặt nạ Tuồng (hát Bội) Bình Định.

Hóa trang nhân vật Tạ Ngọc Lân trong tuồng Tam nữ đồ vương. Ảnh: T.L

Lê Văn Chiêu là người đã theo đuổi nghệ thuật hát Bội từ trước năm 1975. Ông đã từng trình tiểu luận cao học với nhan đề Nguồn gốc nghệ thuật trình diễn Việt Nam (từ lập quốc đến cuối thế kỉ XVI)(14). Tư liệu này được ông nâng cấp thành Nghệ thuật sân khấu hát Bội(15). Trong phần Nghệ thuật hát Bội, ông đã nghiên cứu khá kĩ về những nét đặc sắc trong nghệ thuật hát Bội Bình Định qua phục trang, đạo cụ và mặt nạ. Trực tiếp sưu tầm và nghiên cứu về hát Bội Bình Định, chúng ta có thể ghi nhận những đóng góp của Quách Tấn, Quách Giao qua Đào Tấn và hát Bội Bình Định (2007). Đây là những suy nghĩ, phác thảo một cách có hệ thống và xác định được một số điểm liên quan đền phục trang, đạo cụ và mặt nạ biểu diễn hát Bội. Năm 2009, một chuyên khảo về mặt nạ Tuồng (hát Bội) Nguyễn Vĩnh Huế được công bố. Trong sách Mặt tuồng này, tác giả đã quan tâm và nghiên cứu kĩ sự khác biệt giữa nghệ thuật vẽ mặt của cùng một nhân vật trong nghệ thuật Tuồng ở ba miền(16). Đây là công trình có giá trị tham khảo, so sánh quan trọng khi đánh giá mặt nạ Tuồng (hát Bội) Bình Định. Từ góc nhìn so sánh chúng ta cũng nên lưu tâm đến quan điểm của Trương Cảnh Sơn (Trung Quốc). Trong Kinh kịch thường thức (2010), ông đã nhấn mạnh: “Vai nào mặc áo nào, đội mũ gì… đều phải căn cứ thân phận, tính cách của nhân vật mà định… Đã biểu diễn thì phải cho chân thực, diễn cuộc sống cổ đại thì phải theo cuộc sống đời xưa mà diễn, nếu để thừa tướng đội mũ thư sinh, xa phu mặc áo vàng, Nhân dân lao động mặc quần áo viên ngoại thì trông sao được… Nếu mặc lầm, đội lẫn sẽ làm hỏng cả buổi diễn…”(17).

Riêng về kỹ thuật dùng màu và vẽ mặt nạ, Đoàn Thị Tình trong Mỹ thuật sân khấu Tuồng truyền thống (2008) đã khẳng định: “Về hóa trang vẽ mặt, các nghệ sĩ Tuồng ở miền Trung, đặc biệt là ở Bình Định, vẫn còn giữ được những hình nét sắc màu cổ truyền. Vì như việc xoa màu nền trên da mặt, không bôi sát vào hai con mắt, mà vẫn để chừa hai mảng da thực quanh vòng mắt. Phải chăng đây là việc kế thừa tục đeo mặt bạ khoét hai lỗ mắt để nhìn của người Việt xa xưa trong một số trò diễn, điệu múa dân gian…”(18). Điều này đã được nhà nghiên cứu tái khẳng định trong công trình Hóa trang mặt nạ sân khấu Tuồng (2014)(19). Năm 2019, quyển Đường vào hát Bội(20) được xuất bản. Đây là tập sách phổ biến kiến thức nhưng có liên quan đến phục trang, đạo cụ và mặt nạ hát Bội Bình Định. Cũng trong thời gian này, Trần Đình Sanh, thông qua quá trình khảo sát tìm hiểu mặt nạ Tuồng đã cho công bố công trình Tuồng & mặt nạ Tuồng(21). Công trình đã đánh giá khá toàn vẹn những vẫn đề về kỹ thuật hóa trang trong biểu diễn hát Bội, trong đó có Bình Định.

Trong phạm vi tư liệu hiện có, chúng tôi cố gắng tập trung làm rõ những dấu ấn Bình Định trong Tuồng (hát Bội) qua phục trang, đạo cụ và mặt nạ. Tuy nhiên, đây là một trong những nội dung khoa học cực kì phức tạp và có tính giao thoa giữa các loại hình trình diễn của Việt Nam. Do đó, vấn đề chắc chắn sẽ còn nhiều tranh biện. Vì thế, một trong những ưu tiên trọng tâm của nhóm nghiên cứu là tổng quan tư liệu, phân tích đối sánh để nêu bật các thuộc tính cơ bản của loại hình Tuồng (hát Bội). Nếu hoàn thiện sẽ có những đóng góp lớn cho lịch sử nghiên cứu Tuồng (hát Bội) Bình Định và khu vực Nam Trung bộ.

TS. VÕ MINH HẢI

CHÚ THÍCH:

1. 陶進 (Đào Tấn), 戲場隨筆錄 Hý trường tùy bút lục, 觀文堂藏版 (Thư viện Viện Văn học, ký hiệu AB.176), tr.29a.
2. Nguyễn Phúc An (2023), Về quyển Sự tích và nghệ thuật hát bộ của Đoàn Nồng, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Tp.HCM, tr.09.

3. Nguyễn Đức Hiệp (2017), Nghệ thuật sân khấu: Hát bội, đờn ca tài tử và cải lương ở Sài Gòn và Nam kỳ cuối thế kỉ XIX đến 1945, Nxb Văn hóa – Văn nghệ Tp. HCM, tr.12.
4. Trần Văn Khải (1970), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, S, tr.62 – 63.
5. Trần Văn Khải (1970), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Sđd, tr.68.
6. Huỳnh Khắc Dụng (1960), Hát bội (song ngữ Việt Pháp), Sđd, tr.276.

7. Vũ Duy Khoan (1972), Tìm lại hương xưa qua nghệ thuật hát Bội, Tài liệu do nhóm nghiên cứu sưu tầm, chưa xuất bản, tr.215.
8. Vũ Duy Khoan (1972), Tìm lại hương xưa qua nghệ thuật hát Bội, TLđd, tr.201.
9. Vũ Duy Khoan (1972), Tìm lại hương xưa qua nghệ thuật hát Bội, TLđd, tr.233.

10. Nhiều tác giả (1985), Thư mục Đào Tấn, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình, tr.191.
11. Nhiều tác giả (1991), Nghệ thuật hóa trang mặt nạ trong sân khấu hát Bội, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
12. Nhiều tác giả (1995), Nghệ thuật hát Tuồng (Giáo trình đạo tạo diễn viên bậc trung cấp), Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Bình Định.

13. Huỳnh Ngọc Trảng (1995), Sổ tay thưởng thức hát Bội, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.
14. Lê Văn Chiêu (1975), Nguồn gốc nghệ thuật trình diễn Việt Nam (từ lập quốc đến cuối thế kỉ XVI), Tiểu luận Cao học, Viện Đại học Sài Gòn.
15. Lê Văn Chiêu (2007), Nghệ thuật sân khấu hát Bội, Nxb Trẻ Tp. HCM.

16. Nguyễn Vĩnh Huế (2009), Mặt tuồng, Nxb KHXH, H, tr.103.
17. 张景山 (编著), 京剧常识 , 人民文学出版社, 中国, tr.26.
18. Đoàn Thị Tình (2008), Mỹ thuật sân khấu tuồng truyền thống, Nxb Sân khấu, H, tr.244.
19. Đoàn Thị Tình (2014), Hóa trang mặ nạ sân khấu Tuồng, Nxb Sân khấu, H, tr.44.
20. Nhóm tác giả Lục Tỉnh Cầm ca (2019), Đường vào hát Bội, Nxb Văn hóa – Văn nghệ Tp. HCM.
21. Trần Đình Sanh (2019), Tuồng & mặt nạ Tuồng, Nxb Đà Nẵng.

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Văn chương: Hứng khởi và kết nối

“Cồn” đến với bạn đọc như một hiển nhiên, một gắn kết Hồ Minh Tâm, Lê Trọng Nghĩa, Duyên An, Khổng Trường Chiến, Vân Phi, Trần Quốc Toàn, My Tiên, Nguyễn Đặng Thùy Trang…

Thiên tài tàn nhẫn

Pablo Picasso – người mà cả thế giới tôn vinh là bậc thầy của sự phá cách trong nghệ thuật, lại là một cái tên đầy mâu thuẫn khi nhắc đến đời sống riêng tư của ông, đặc biệt là với phụ nữ…