(VNBĐ – Truyện ngắn dự thi). Những vệt nắng cuối ngày vẫn còn vương vấn trên bờ vai gầy guộc của bà. Xa xa, dãy Trường Sơn chìm dần trong sắc tím mơ màng, hoàng hôn tháng Ba phủ lên cảnh vật làng quê vẻ đẹp yên bình mà thăm thẳm…
Bám vào bờ tường đứng dậy, bà Sáu Thử chậm rãi từng bước về phía bàn thờ.
Lửa nhang bừng lên, ánh sáng nhập nhòe ấy đủ rọi những đường nét nhọc nhằn ưu tư chất chứa trên gương mặt bà.
Không gian đã sẫm đậm, ngọn đèn dầu leo lét trong căn nhà nhỏ. Bà Sáu Thử vẫn lặng bên bàn thờ, chăm chăm vào những di ảnh. Ông Sáu vẫn mỉm cười, giọng nói ấm áp của ông như còn đâu đây:
– Má thằng Sanh nhớ tắm nước nóng cho bớt nhức mình, đừng quên nấu cháo cho lũ nhỏ ăn sáng kẻo đói bụng mất sức nghe!
Hình ảnh Hai Sanh lại hiện lên trong tâm trí bà. Đôi mắt sáng giống cha, nó hay ôm lưng bà thủ thỉ, giọng con trẻ nhưng đầy ý chí:
– Má à, đúng mười bốn tuổi má cho con thoát ly lên cứ nghen!
Bàn tay gầy guộc vuốt khẽ vuốt lên khung gỗ, ánh mắt như muốn xuyên qua lớp kính cũ để chạm vào gương mặt non nớt, đôi má phúng phính của Út Nhơn.
Út Nhơn mất một lóng ngón áp út bàn tay trái lúc ba tuổi vì cua đá kẹp. Nó lọt lòng dưới hầm giữa trận càn của lính Nam Hàn ở Nhơn Tân, tháng 6 năm 1966.
Bà Sáu nhẹ day người qua di ảnh Ba Hớn, đứa con gái yếu ớt xanh xao mà vẫn luôn phụ cha mẹ chăm em.
Khói nhang lẩn khuất như kéo bà về những tháng ngày khốc liệt nhưng ắp đầy yêu thương! Tiếng thở dài của bà hòa vào không gian tĩnh mịch, nỗi nhớ nhung như từng đợt sóng ngầm cuộn lên. Bất giác, bà ớn lạnh, cơn nhói đau quen thuộc bỗng xoắn lên, lan từ thái dương xuống bả vai rồi xuống hai cánh tay và mạng sườn. Những vết tích oan nghiệt chưa một ngày để bà yên, mỗi khi trở trời từng đường sẹo lại bừng tỉnh, nổi quặn rít ráy đay nghiến bà đến tận xương tủy. Theo thói quen, bà đưa tay xoa nhẹ lên những mảng da sần sùi, xám xịt, chằng chịt những đường gân cơn đan chéo nhau như mạng nhện và khẽ xuýt xoa, rồi chậm chạp lần tới chiếc chõng tre cũ kỹ kê ở góc nhà.
Kỷ niệm xa xưa bất chợt ùa về những ngày cuối năm 1971, nơi vùng ven Đồng Bịch…
Theo chỉ thị của tổ chức, cùng sự hỗ trợ của cơ sở tin cậy, gia đình Sáu Thử dọn đến Ân Tường, sống trong một căn nhà tranh của “người quen”. Ở đó, cô “trong vai” là phận làm thuê làm mướn, chật vật nuôi ba đứa con thơ, chồng đã mất vì bệnh tật. Trong lớp vỏ bọc ấy, Sáu Thử sẵn sàng đối mặt với sống chết, vừa bảo vệ con cái, vừa hoàn thành nhiệm vụ được giao. Những tháng ngày ấy, mỗi hơi thở đều phải dè chừng, mỗi bước đi đều thấp thỏm…
Người ta chỉ biết gia đình cô sống lay lắt. Ai cũng thấy mấy anh em thằng Hai Sanh, đứa lớn dẫn đứa nhỏ mũi dãi lòng thòng đi nhặt nhạnh từng lon đồ hộp lính ăn dở quăng đâu đó, mót từng mớ sắn mớ khoai…
Và quan trọng nhất là gia đình khốn khó ấy không đáng để đám bảo an phải để mắt tới.
Sáng sáng mấy anh em Hai Sanh dắt nhau thơ thẩn ra khu Đồng Bịch. Mặt trời mờ đục trong lớp mây dày, phả từ lòng đất lên hơi buốt như tiếng thở dài của những mảnh đời bị kìm kẹp. Đồng Bịch mênh mông, những đồi cỏ nhấp nhô vàng vọt vì bom cháy. Vài giồng đất người dân vun lên kiếm mớ khoai mớ sắn mì, vài đám lúa lơ thơ ám mùi thuốc súng rạp lẫn bùn. Đâu đó lòi xòi vài cái bẫy chuột đồng, bẫy sóc của người dân đêm đêm lén ra đặt vội sáng không kịp lấy. Trơ khấc giữa giá lạnh, sót lại giữa sùng sục khói lửa chỉ là những đám cỏ trơ trọi đơn côi, đâu ra chuột sóc. Lát lát vài đàn quạ quang quác vỗ cánh phành phạch hít mùi tử khí.
Từ Đồng Bịch, Hai Sanh căng mắt hết sức phóng qua Gò Loi, trên đỉnh đồi hình chóp nón sừng sững cứ điểm xây dựng kiên cố, ghi nhớ mọi thứ rồi về báo lại ở hộp thư tín bí mật mà chỉ mình nó biết. Hết khu vực an toàn, mấy anh em Hai Sanh bò lổm nhổm qua mấy ụ đất, nơi này là ranh giới giữa vùng trắng và vùng kiểm soát. Khỏi cánh đồng trống trơ sình lầy là khu quân sự đặc biệt của lính Cộng Hòa, ngăn cách bằng mấy hàng cây bạch đàn, nhiều lớp rào kẽm gai sắc nhọn và những đồi cát nhấp nhô với vô số bẫy mìn. Hai Sanh chổng mông hì hục đào một hố cát lớn, gom mớ cỏ khô lót dày bồng đặt Út Nhơn xuống:
– Út nằm im ru ở đây cho ấm, chạy lông nhông trên này đầm già bắn. Hai bò ra bờ lạch móc cua!
Nhắc tới cua, bất giác Út Nhơn chụp ngón tay mất một đốt thu vào ngực, ánh mắt thất thần hoảng sợ. Hai Sanh ôm em gái vỗ về:
– Hai bắt nướng đen thui thùi lùi thơm lựng, nó không kẹp Út được đâu, đừng sợ nghen!
Út Nhơn ngẩn người vài giây rồi ngoan ngoãn thom lom khoanh tròn trong hố cỏ khô. Hai Sanh nấn ná xoa đầu, gãi tóc tới khi em gái ngủ ngon lành mới nhẹ nhàng trườn lên dặn Ba Hớn:
– Canh chừng em ngủ, không nghe lời lần sau ở nhà!
– Hai ỷ lớn ăn hiếp, cha về em méc cha!
Hai Sanh ôm Ba Hớn, bịt miệng:
– Cha chết rồi, má đi làm mướn! – Hai Sanh ghé sát lỗ tai con em.
Ba Hớn trào nước mắt mếu máo:
– Cha chết rồi, má đi làm mướn, hu hu!
Hai Sanh ngước mặt lên ngăn dòng nước mắt, xoa lưng nó:
– Nói bậy lính nghe bắn chết má, bắn chết hết mấy anh em mình!
Bỗng dưng nó trở thành trụ cột gia đình, bỗng dưng nó thấy mình ra dáng đàn ông lớn. Nó di chuyển nhiều hơn, nhiều nguy hiểm hơn, phải một mình đương đầu với sống chết. Dù lâu lâu nó vẫn lén trốn ra bụi chuối khóc hả hê mỗi khi nhớ cha, mỗi khi gặp chuyện gì quá sức. Đàn ông lớn nhất định không để người khác thấy nước mắt!
– Nghe lời, Hai thương!
Ba Hớn gật gật đầu đẩy Hai Sanh ra rồi bò xuống ôm ngang lưng Út Nhơn cười toe:
– Nghe lời, chị Ba thương!
Hai Sanh bật cười theo rồi trườn xoãi người lướt qua mấy bụi cỏ, mất hút.
Nó chỉ được phép dừng ở khu vực giáp ranh Đồng Bịch và Gò Loi để quan sát, vẽ sơ đồ địa hình Đồng Bịch. Dò xét nghiên cứu khu vực này thật kỹ để mấy chú có cơ sở thực hiện kế hoạch tiếp theo. Cánh đồng loang lổ nhiều ảng nước đựng trong các hố bom cũ mới như những vết thương chưa kịp lành. Hai tháng ròng bám sát ở đây, nó thuộc từng gốc cỏ từng bờ lạch, hố bom…
Ẩn mình trong đám cỏ khô, căng mắt lên đỉnh đồi chóp nón, nhiều bóng dáng lờ mờ thấp thoáng trên chòi canh, lúc ẩn lúc hiện. Chú Sáu Tụ dạy nó cách đếm để tính giờ, cứ sáu mươi lần là một phút. Nó kiên nhẫn đếm đều đều, cứ năm lần đếm sáu mươi là một loạt đạn từ nhiều họng súng bao bọc quanh cứ xả ra ào ạt. Cứ ba mươi lần đếm sáu mươi là còi hụ một lần thay lính gác, mỗi lần thay ca đều xả súng mù mịt khói cày xới xuống khu vực xung quanh cứ điểm. Đồng Bịch còn vài con cua con cá, bên Gò Loi con đỉa dai nhách cũng không sống nổi…
Tiếng quạ kêu chiều khàn đục váng cả một góc Đồng Bịch.
Không gian sập nhanh, thằng Hai lật đật chui ra khỏi đám cỏ khô, tìm móc mấy con cua, lượm lặt mớ sắn mì hư sùng không lớn nổi vì thuốc súng:
– Hai nhúm lửa lùi sắn mì, bụng Út Nhơn kêu rột rột rồi. Để Hớn kiếm cái lon múc nước, sắn mì lùi mà hổng có nước chắc nghẹn tới mốt luôn đó Hai!
– Thôi, ráng ráng Hai cõng Út về nhà má nấu cho ăn. Đốt lửa ở đây đầm già mò tới là tiêu đó! – Hai Sanh xốc Út Nhơn lên rồi xách xâu cua.
Ba Hớn là đứa nhỏ biết nghe lời nên vui vẻ le te ôm bọc sắn mì chạy theo anh. Đôi chân trần bé nhỏ lép nhép sì soạt trong lớp sình tê buốt, gió đông như lưỡi dao sắc cứa qua làn da non nớt trong mảnh áo vá víu. Lát lát nó lè lưỡi liếm liếm đôi môi tím ngắt nứt nẻ rồi líu lo:
Dung dăng dung dẻ,
dắt trẻ đi chơi
đến cổng nhà trời
lạy cậu lạy mợ…
Út Nhơn cũng nhảy nhổm trên vai anh, Hai Sanh cũng rần rần phụ họa:
Cho cháu về quê
cho dê đi học
cho cóc ở nhà
cho gà bới bếp
xì xà xì xụp
ngồi thụp xuống đây.
Vừa dứt câu Hai Sanh thả Út Nhơn lăn chỏng quèo, ba anh em nó cười giòn rụm ráng chiều.
Hai Sanh theo chân ông Tám xe ngựa xuống phủ lỵ. Nó dò dè qua những khu trại lính, mấy cái lô cốt sừng sững như những con quái thú nằm im lìm. Hai Sanh len lỏi tìm mấy bao cát thải. Những bao cát cũ, xơ vải bố gai dày cộp, trước đây người ta đựng cát làm công sự, giờ được nó xếp gọn mang về. Má chắp vá lại, cắt cắt may may thành mấy chiếc áo ấm cho mấy anh em nó.
Mùa Xuân 1972
Dạo này tin chiến thắng từ các mặt trận gửi về dồn dập. Hai Sanh thoăn thoắt chạy tới lui giữa các hộp thư liên tục như cánh quạt sắt cắm điện phụt gió. Lính Cộng Hòa gần đây có vẻ bớt hống hách, bớt quơ heo, hốt gà. Đám bảo an, cảnh sát áo trắng trước hay đè cổ hạch sách dân, bây giờ cũng lấm lét. Bất ngờ nhận được tin của cha, má nó mừng bật khóc.
Nó thương cha, còn thương má hơn!
Hai Sanh mừng hết lớn khi được nhận trách nhiệm cảnh giới vòng ngoài cho các chú đang làm nhiệm vụ điều tra tình hình ở cứ điểm Gò Loi. Nhiều ngày liền, đội trinh sát đặc công đột nhập, ngụy trang len lỏi bám trụ giữa những hàng rào cứ điểm. Hai Sanh không được phép biết nhiều, nó thương mấy chú phải khổ cực gian nguy, đội cỏ khô ẩn mình nhai gạo rang, uống nước ruộng từ đêm qua ngày từ ngày qua đêm trước vọng gác địch để lập phương án tác chiến. Thằng Hai bàn với má, hai mẹ con lùi khoai sắn, vắt cơm nén chặt trong vỏ đồ hộp rỗng đặt ở các trạm trên Đồng Bịch. Trên đường di chuyển đến Gò Loi mấy chú sẽ đỡ đói lòng! Nó còn gom nhiều cỏ khô cột thành từng búi để dọc bờ lạch để mấy chú mang theo ngụy trang.
Cứ điểm Gò Loi án ngữ trên chóp đỉnh đồi, sừng sững như cụm gai khổng lồ mọc trên da thịt làng quê. Ba mặt tiếp giáp với đồn là cỏ lau lác rậm rạp rắn rít muỗi mòng, là đầm lầy lội sùm sụp chực hút người xuống bất cứ lúc nào. Con đường độc đạo dẫn lên đồn được bao quanh bằng ba tầng hầm và lô cốt kiên cố, một con gà cũng không thoát khỏi lính canh. Để vượt qua được mỗi tầng hầm lô cốt bao bọc vành khăn đó không đơn giản. Tầng này cách tầng kia một bờ dốc cao ba mét dựng đứng như dốc đá, bọc quanh là hàng kẽm lùng nhùng sắc nhọn xen giữa hai lớp kẽm đơn. Xung quanh cứ điểm Gò Loi là hơn chục lớp rào, chưa kể vô số bãi mìn, bẫy chông gài chi chít bốn phía. Trên đỉnh có sân bay lên thẳng, có hầm ngầm dự trữ vũ khí lương thực đủ nuôi quân trong mấy tháng nếu bị bao vây. Viên thiếu tá chỉ huy liên đội bảo an đóng ở Gò Loi tuyên bố: “Khi nào nước sông Kim Sơn chảy ngược thì Việt Cộng mới lấy được Gò Loi”.
Hai Sanh được lãnh nhiệm vụ dẫn đường cho lực lượng vận chuyển vũ khí. Trong đêm tối, nhiều thùng vũ khí, những trái nổ được chuyển về lặng lẽ, được giấu kỹ trong các hố cát, dưới lớp hào bí mật dày đặc ở Đồng Bịch giáp Gò Loi. Mọi thứ đều được ngụy trang hoàn hảo, như thể đó là một phần của thiên nhiên hoang dã, địch không thể nghi ngờ.
Giữa lúc tình hình khẩn trương thì Sáu Thử lại nhận chỉ thị của tổ chức. Sáng sớm, cô hối thúc mấy đứa nhỏ thu dọn đồ đạc. Xin phép chủ “về quê giỗ cha”. Tội nghiệp, đang ngủ mà đứa nào cũng bật dậy tỉnh queo. Biết má lo lắng cho mình nên vừa chất đồ lên xe ngựa Hai Sanh vừa động viên:
– Má với mấy em về mạnh giỏi, đừng lo cho con!
– Phụ má đưa em về rồi theo xe ông Tám quành lại. Mồ tổ mày, lì lợm hết sức!
Hai Sanh lí lắc thọc nhẹ hông má rồi ôm quàng từ sau lưng:
– Thương má nhất trần đời!
Sáu Thử xoay người lại vò mái tóc xoăn của con trai, hôn lên cái trán dô bướng bỉnh của nó. Chỉ cần má cười, nó không cần cười cũng thấy vui!
Chiếc xe ngựa ra khỏi khu dân cư chừng ba mươi phút, sương giăng bám víu trên vai gai gai se lạnh. Mấy đứa nhỏ dúi dụi ôm nhau ngủ ngon lành, Sáu Thử kéo tấm mền cắt ráp từ bao cát thải phủ lên người các con.
Chiếc xe ngựa lộc cộc chạy trên con đường đất sục sùi, nghiêng trái ngã phải bởi những rãnh hằn sâu hoắm của vết xe bọc thép Mỹ. Lát lát bùn nhão trong vũng nước quét lên người, hai bên đường cây cối lặng lờ xác xơ hiếm hoi sự sống.
Tiếng xe nhà binh từ xa rền rền dần tiến lại, đoàn xe chở lính chạy rầm rập qua cuốn bụi đất bùn nhão xoắn quện không gian. Sáu Thử nhanh tay kéo tấm bao cát che mặt lũ nhỏ, chắc kéo lính đi càn ở đâu đó! Đoàn xe xa mờ dần trong màn bụi, có chút khoảnh khắc bình yên hiếm hoi của chiến tranh. Đâu đó lơ thơ những bụi cây dại đỏ oạch đẫm sương, bên bờ tre đàn chim bất chợt vụt lên, nháo nhác như đang sợ hãi thứ gì đó.
Sáu Thử nhìn thẳng về phía trước, kéo nhẹ chiếc khăn dù che cổ, mấy đứa trẻ vẫn ngủ ngon lành dưới tấm mền chắp vá chằng đụp: “Ráng chút xíu nữa, qua hết đoạn trống này tới cầu là ổn!”. Hai bên đường lúc này lác đác mấy đám lúa vàng óng ngã rạp. Những người nông dân đang tất bật thu gom “sự sống”, trước cặp mắt soi mói của đám bảo an kè kè khẩu M16 luôn sẵn sàng nhả đạn.
Trên cao, có tiếng động cơ khác lạ ngày càng gần, con ngựa đang chạy cần mẫn bỗng khựng lại dựng đứng hai chân trước lên hí mấy hồi khan lạc.
Ông Tám giật mình nhổm dậy ghìm cương, nhoài người tới trước vuốt bờm ngựa rồi lùi lại kéo nhẹ dây cương qua trái. Con ngựa thả hai chân trước xuống rồi quay nhẹ qua phải. Nó chưa kịp bình tâm thì tiếng gầm rú xé toạc không gian, một chiếc máy bay đang lao tới. Sáu Thử kinh hãi nhận ra hiểm họa sắp ập xuống. Chiếc máy bay đang bốc cháy phần đuôi và cánh trái:
– Nhảy, tìm chỗ núp! – Ông Tám hét lên rồi quăng người úp xuống bờ cỏ.
Mấy đứa nhỏ bật dậy hoảng loạn, theo phản xạ Sáu Thử dang rộng hai tay chồm cả thân người xuống che chở cho các con, hơi thở bỗng dưng bị chặn đứng ngang lồng ngực. Con ngựa lồng lên hất tung cỗ xe, mấy mẹ con cô văng ra.
Từ máy bay hai chiếc dù trắng bung ra lơ lửng giữa không trung…
Tiếng nổ đanh chát chói lòa, dưới chân rung chuyển, đất đá xới tung lên rồi vỡ ụp xuống như trận cuồng phong. Khoang lửa từ máy bay phụt lên loang ra ụp lên bất cứ thứ gì trong vòng bủa vây của nó. Chiếc máy bay hộc chồm lên rồi quét qua đám lúa vàng óng. Thân thể những người nông dân bốc lửa phừng phừng khi họ chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau đó nó bẻ úp cắm thẳng đầu xuống bãi đất trống gần đó cùng tiếng nổ rách nát không gian.
Sáu Thử ho sặc sụa, lao người tới kéo Ba Hớn như ngọn đuốc. Đằng kia, Hai Sanh mặc kệ ngọn lửa trên lưng, trên đầu dùng hết sức bình sinh ôm Út Nhơn đang quằn quại. Thằng Hai nhìn qua má rồi vụt bật dậy bưng Út Nhơn lao nhủi tới hố bom. Hai anh em nó cứng đơ xì khói khét rẹt, ngập ngụa trong vũng nước sục sủi bùn. Sáu Thử nằm bất động, tay vẫn ôm chặt con gái trên mép ruộng lấp xấp nước. Toàn thân Ba Hớn sạm đen, từng mảng da dúm dó tuột lẳng nhẵng nhưng con nhỏ không biết đau vì nó không còn nhúc nhích.
Có tiếng xe nhà binh, tiếng giày đinh nhốn nháo, tiếng chửi thề…
Những người dân bị bỏng do chiếc máy bay tiếp nhiên liệu cho cứ điểm Gò Loi bị rơi được hốt thảy lên chiếc xe nhà binh chở đi. Không phân biệt già trẻ trai gái, không cần biết còn sống hay đã tắt thở.
Sáu Thử mở mắt, mùi thuốc sát trùng nồng nặc xông vào mũi, gượng ngồi dậy nhưng cơ thể không còn cảm giác. Toàn thân quấn băng trắng toát, máu thấm từ vết thương làm lớp gạc cứng queo cọ xát vào da thịt đau rát.
Một bác sĩ da đen bước vào, lẳng lặng tiêm cho cô một liều thuốc:
– Bác sĩ ơi, con tôi đâu? – Sáu Thử lào thào khản đặc, cố gắng quơ tay chân…
Viên bác sĩ tỏ ý không hiểu tiếng Việt và ra hiệu cô yên lặng. Một y tá dùng dây cột tay chân cô vào thành giường. Người đàn ông nằm giường bên thở dài:
– Nghe đâu trẻ nhỏ dồn lên xe chở đi rồi, thằng con tui giờ không biết sống chết ra sao!
Sáu Thử tuyệt vọng khóc rưng rức…
Nhà thương Thánh Gia Quy Nhơn tháng 4 năm 1972
Một phòng bệnh đặc biệt dành cho những đứa trẻ bị thương do máy bay tiếp nhiên liệu bị cháy rơi, đã chuyển qua giai đoạn nhiễm khuẩn độc bỏng. Lực lượng bộ binh Mỹ đã rút khỏi Quy Nhơn nên bác sĩ Bevis từ bệnh viện dã chiến của Mỹ qua hỗ trợ cho các sơ. Các sơ của dòng nữ tu Y tế Truyền giáo ở đây đều là bác sĩ, y tá, dược sĩ. Nhà thương Thánh Gia chuyên khám chữa bệnh từ thiện cho bất cứ người dân nào không kể ngoại đạo hay có đạo.
Trong căn phòng trắng toát, năm đứa trẻ nằm trên năm chiếc giường xếp cạnh nhau. Cơ thể chúng quấn chặt trong lớp băng trắng dày, chỉ chừa lại đôi mắt và mũi để thở. Thi thoảng một vài tiếng rên rỉ yếu ớt bật ra rồi chìm sâu vào hôn mê.
Các sơ lặng lẽ di chuyển xung quanh để chăm sóc, những đứa trẻ đều bị đốt cháy hầu như toàn bộ cơ thể. May mắn nhất là bé gái khoảng năm sáu tuổi chỉ bị sức ép ngất đi, nhưng vết bỏng tuy không sâu vẫn có dấu hiệu nhiễm khuẩn. Hai Sanh mở mắt nhìn quanh, nó không đủ tỉnh táo để nhận ra hai đứa em.
Tiếng va chạm của kim loại dịch chuyển vang lên, hai sơ đẩy chiếc xe đầy thuốc mỡ và bông băng vào phòng. Tay chân của Hai Sanh bị cột chặt vào thành giường. Nó quẫy đạp, miệng ú ớ… Ba Hớn nằm bất động, nước mắt ứa ra từ khóe mi nhắm nghiền. Toàn thân nó run nhẹ mỗi khi y tá kéo lớp băng cũ dính chặt vào vết bỏng để thay. Nó không còn sức để quẫy đạp hay la khóc. Trên bụng, ngực nó nhòe nhoẹt loang lổ vết dịch vàng lẫn máu.
Hai đứa trẻ kia cũng sốt li bì không còn phản ứng. Các sơ quay mặt lén giấu nước mắt khi các lớp băng bị tháo gỡ ra, để lộ từng mảng da thịt cháy đen lột sâu tận xương đang nhiễm trùng. Từng vết thương như lưỡi dao cứa vào lòng các sơ:
– Xin Chúa đừng để bọn trẻ đau đớn thêm nữa, Amen! – sơ Helen ngước nhìn bầu trời xám xịt, nặng trĩu.
Màn đêm đậm đặc, Ba Hớn nằm đó. Sơ Helen nắm chặt bàn tay bé nhỏ đang lạnh dần của nó. Thân thể của đứa trẻ vẫn khét lẹt khói xăng, mùi của sự hủy diệt:
– Xin Chúa thương xót, con sẽ không còn đau đớn nữa. Amen!
Hơi thở của Ba Hớn mỏng manh dần, sơ Helen ôm thân thể bé nhỏ của Ba Hớn vào lòng, chết lặng! Ba Hớn lặng lẽ ra đi như khi nó lặng lẽ đến với thế gian này. Bên ngoài một ánh sao xẹt qua, như đón rước linh hồn của nó bay về chốn thênh thênh!
Càng về khuya, tiếng rên của hai đứa trẻ giường bên cạnh cũng thưa dần rồi tắt lịm. Hai trái tim bé nhỏ ấy đã đầu hàng số phận nghiệt ngã. Hai Sanh vẫn nhắm nghiền mắt, miệng như đang cười. Trong cơn mê nó được gặp cha, được cha ôm chặt khừ, được rờ rẫm khẩu AK báng gập. Nó chợt thấy má cười hiền khô, Út Nhơn không còn sợ cua kẹp, Ba Hớn không còn ốm nhách xanh mét hay sốt ho nữa… Hai Sanh cười, cười miên man và thật nhẹ nhàng lướt vào bồng bềnh mây trắng…
– Xin Chúa hãy cứu rỗi linh hồn các con Amen! – sơ Belle cúi đầu cầu nguyện.
Sáng hôm ấy, tháng 4 năm 1972
Bế bé gái gầy gò lúc mê lúc tỉnh vì nhiễm khuẩn độc bỏng, bác sĩ Bevis quyết định đưa em về Mỹ để điều trị, và ông cũng khép lại những ngày tháng làm việc tại Việt Nam. Sơ Helen cẩn thận ghi vài dòng thông tin về đứa trẻ lên một mảnh giấy rồi tin tưởng giao sinh linh bé nhỏ ấy cho bác sĩ Bevis.
Nhơn Tân, một ngày cuối Xuân 2023
Chiếc tắc xi màu xanh chầm chậm rồi dừng hẳn trước cánh cổng gỗ cũ kỹ. Trên xe một phụ nữ chừng ngoài năm mươi tuổi bước xuống, đứng lặng một hồi lâu.
Khẽ chạm tay lên cánh cổng, bỗng dưng cảm giác thân thuộc như tia lửa điện phóng thẳng vào lồng ngực khiến tim chị loạn nhịp. Những mảnh ghép ký ức rạn vỡ từ rất xưa đang dần được chắp nối, ký ức khét màu khói!
Cắn chặt môi, từng bước chậm chị tiến về phía ngôi nhà.
Đứng lặng trước cánh cửa gỗ bạc màu, ngập ngừng hồi lâu để trấn tĩnh rồi mới run run gõ nhẹ. Mỗi tiếng gõ như một nhịp tim dồn dập, hồi hộp đến nghẹn thở. Một khoảnh khắc thinh lặng sau tiếng gõ, cánh cửa từ từ cọt kẹt hé ra. Một bà lão mái tóc sương khói mênh mênh, khuôn mặt hiền từ, nghiêng đầu nhìn chị đôi mắt đục mờ:
– Út Thương về rồi hả con? Rồi vợ con bây có về hay còn ở bên ngoại?
Người phụ nữ như bị đông cứng, thế giới dường như biến mất, chỉ còn lại hình hài gầy guộc của bà cụ trước mặt. Ký ức bỗng ùa về, rõ ràng liền mạch, không còn rời rạc mơ hồ. Giọng nói ấy, hơi thở ấy, là hơi thở mà chị đã kiếm tìm suốt nửa thế kỷ. Là nỗi đau của ngày chia ly mà chị mang theo trên hành trình cuộc đời. Chị khuỵu xuống, nghẹn ngào thốt lên bằng tiếng Việt lơ lớ:
– M… á… má… má ơi!
Bà lão nheo đôi mắt mờ đục, nụ cười hiền lành thoảng chút ngạc nhiên trên khuôn mặt nhăn nheo ấy:
– Đứa nào đó bây?
Người phụ nữ đứng dậy dang vòng tay ôm trọn lấy thân hình gầy guộc của bà cụ, như sợ một lần nữa buông ra hình bóng ấy sẽ tan biến. Bàn tay trái chị nhẹ nhàng đặt lên tay bà, để lộ ngón áp út mất một đốt.
Bà cụ khựng lại, đôi mắt đục mờ thoáng ánh lên!
Bà run rẩy lần tìm gương mặt chị, chạm vào từng đường nét trên má, trên trán, rồi dừng lại ở đôi vai nhỏ bé. Đôi tay nhăn nheo ấy tiếp tục dò dẫm, như muốn chắc chắn đây không phải là giấc mơ.
Bất ngờ bà siết chặt lấy bàn tay chị, người rung lên, nước mắt trào ra.
Rồi bà nấc nghẹn:
– Con… con ơi!
LÊ PHA LÊ