(VNBĐ – Bình Định mến yêu). Giao thông là nhu cầu cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội từ khi chưa có Nhà nước đến ngày nay, giao thông mở rộng thị trường giao thương giao lưu, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, phục vụ nhu cầu hành chính, quân sự… Cũng như nhiều địa phương khác, ở Bình Định, giao thông không ngừng phát triển, mở rộng, nối liền giao thương giữa các địa phương trong vùng, trong nước và nước ngoài bằng nhiều loại hình, phương tiện, nhất là tuyến đường bộ.
Từ thời tiền sơ sử, vùng Bình Định ngày nay là nơi cư trú của cư dân văn hóa Sa Huỳnh (có niên đại cách ngày nay trên dưới 3.500 năm). Theo các nhà khảo cổ, sản xuất hàng hóa của cư dân Sa Huỳnh là công cụ sản xuất và vũ khí bằng sắt, trang sức bằng thủy tinh, gốm gia dụng với trình độ kỹ – mỹ thuật cao. Bằng đường bộ, người Sa Huỳnh đã đến Thái Lan, Việt cổ ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ; bằng đường biển họ đã tới được Philippines, Indonesia, Malaysia… Hơn 10 trống đồng phát hiện tại Bình Định đang lưu trữ, trưng bày tại Bảo tàng Bình Định là chứng cứ sinh động việc giao thương trao đổi của người Sa Huỳnh với người Đông Sơn.
Theo sử liệu, người Champa rất giỏi đi biển, Thị Nại là một thương cảng lớn và đặc biệt phát triển trong giai đoạn châu Vijaya (Bình Định ngày nay) trở thành kinh đô của Champa (TK X-XV). Thư tịch cổ Trung Quốc Kinh thi đại điển tự lục, chép về cảng Thị Nại: “Cửa cảng ở phía Bắc liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ thông với Đại Châu của nước ấy, phía Đông Nam có núi ngăn, phía Tây có thành gỗ…”. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chép: năm 1044 “Vua nghe tin Chiêm Thành đem quân và voi bày trận ở bờ bên Nam sông Ngũ Bồ muốn chống lại quân quan. Vua xuống chiếu cho quân bỏ thuyền lên bộ, đem quân sĩ đến bờ sông bên Bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên sông… Vua đem quân đánh vào Phật Thệ (Vijaya)”. Sách Việt sử lược, chép: năm 1069 “Ngày Bính Ngọ đến cửa biển Thi-li-bi-nại… đại quân tiến lên bờ sông Tu Mao… Đêm hôm đó vua dẫn quân đến thành Phật Thệ tới bến sông Đồng La người Phật Thệ ra hàng…”. Dưới thời Champa, giao thông chủ yếu bằng đường biển, đường sông.
Thời chúa Nguyễn, từ năm 1672, giao thông đường bộ tại phủ Quy Nhơn có 03 tuyến huyết mạch quan trọng:
Đường Thiên lý Bắc – Nam còn gọi là đường Hạ đạo, từ Bến Đá (đèo Bình Đê) vào quán Bồ Đề, quán Phủ Cũ, quán Tre, quán Lang Kha, quán Chùa, quán Mới, quán Cảnh Hàn, quán Phú Bình rồi đến quán chân đèo Truông Ninh giáp Phú Yên. Đường Thiên lý đi qua Quy Nhơn, cứ cách khoảng 30 dặm chúa Nguyễn đặt một nhà trạm để bộ hành nghỉ ngơi ăn uống, thay ngựa, chuyển tiếp công văn. Đi bộ đường Thiên lý qua đất phủ Quy Nhơn mất bốn ngày rưỡi.
Đường Thượng đạo, từ quán Bến Đá đến quán Luật Dương, Đồng Duệ, Đồng Hưu, quán Cầu Bông (Bình Khê), đi xuống gặp quán Lạc. Đi bộ đường Thượng đạo qua phủ Quy Nhơn mất sáu ngày.
Đường nối Thượng đạo với đường Thiên lý. Theo Lê Quí Đôn, thế kỷ XVIII, đã có con đường nối Thượng đạo với đường Thiên lý, là tiền thân của Quốc lộ 19 ngày nay. Phủ Quy Nhơn vào thế kỷ XVIII vừa là đầu mối giao thông liên lạc, vừa là trung tâm giao lưu hàng hóa của xứ Đàng Trong.
Đầu thế kỷ XIX, để canh phòng và vận chuyển thuận tiện, triều Nguyễn cho tu bổ, mở rộng tuyến đường bộ. Năm 1804, vua Gia Long định lệ Trạm mục (người đứng đầu trạm) và Trạm phu (người chạy trạm). Bình Định có bảy trạm, mỗi trạm đặt một Cai đội, một Phó đội, mỗi trạm có 50 phu, thuế thân, tạp dịch đều được miễn. Sang thời Minh Mạng năm thứ 3, Bình Định cũng có bảy trạm, được đổi tên như sau: trạm Thạch Tân (thôn Châu Đê, huyện Bồng Sơn) đổi là trạm Bình Đê, trạm Trung An (thôn Trung An, Bồng Sơn) đổi là trạm Bình Trung, trạm Cây Thị (thôn Dương Liễu, Phù Mỹ) đổi là trạm Bình Dương, trạm Thạch Quán (thôn Đại Thịnh, Phù Mỹ) đổi là trạm Bình Sơn, trạm Gò Găng (thôn Kiều An, Phù Cát) đổi là trạm Bình An, trạm Quán Gạo (thôn Mỹ Điền, Tuy Phước) đổi là trạm Bình Điền và trạm Bình Phú (trên đèo Cù Mông, ranh giới Bình Định – Phú Yên). Theo Đại Nam nhất thống chí, thế kỷ XIX tỉnh Bình Định có 01 cây cầu sắt, 147 cầu gỗ và 33 cống đá.
Từ đường Thiên lý, nhiều con đường ngang nối từ đường Thiên lý đi qua các phủ huyện, sách Đại Nam nhất thống chí, chép: Từ phía Đông tỉnh thành, qua đường Thiên lý phủ Tuy Phước, sông An Tân, đến thôn Hoàng Kim là 05 dặm. Từ phía Đông tỉnh thành, qua trạm Bình Nghĩa, phủ An Nhơn, đến phủ lỵ là 14 dặm. Từ phủ lỵ An Nhơn qua hai trạm Bình Nghi, Bình Giang, qua huyện An Khê, đến đồn An Khê là 85 dặm. Từ phủ lỵ An Nhơn có một đường từ phủ lỵ ra Bắc, một đường từ phía Nam phủ lỵ đến nguồn An Tượng. Phủ Hoài Nhơn có một đường từ phủ lỵ qua đường Thiên Lý, đến thôn Phụng Du, theo hướng Đông Bắc đến cửa Kim Bồng; một đường từ phía Bắc phủ lỵ đến trạm Bình Đê, theo hướng Tây Bắc đến nguồn Trà Vân, theo hướng Đông đến cửa biển An Dũ, lên phía Tây qua huyện Hoài Ân đến đất man 27 dặm…
Các đường bộ liên thôn, liên xã, liên huyện và các tuyến lưu thông với phía Bắc – Quảng Ngãi, phía Nam – Phú Yên, phía Tây – Gia Lai cũng được hình thành. Theo Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong – lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII: Con đường từ Strung Treng (Campuchia) – Pleiku – An Khê – Bình Định và Quy Nhơn là một trong hai con đường thương mại và hàng hóa quan trọng nhất giữa người Việt và người Thượng. An Khê – nguồn Cầu Bông/ Phương Kiệu, một trung tâm trao đổi buôn bán, trường giao dịch quan trọng của huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn/ Bình Định thế kỷ XVIII – XIX. Vị thế đầu mối giao thương của cảng thị Nước Mặn, Quy Nhơn trong mối quan hệ liên vùng được xác nhận: “… như một bến cuối của tuyến đường được đi lại nhiều dọc theo cao nguyên đến thung lũng Mêkông, băng qua An Khê, Pleiku và đến sông Mêkông ở Strung Treng (Campuchia), nơi kết nối với mạng lưới giao thương tỏa ra từ Ayudhaya/ Bangkok… Quy Nhơn trở thành trung tâm thương mại quan trọng tại đầu mối của một cảng biển lý tưởng, con đường phía Tây qua núi, con đường phía Bắc đến Thuận Quảng và con đường phía Nam đến đồng bằng sông Mêkông” .
Triều Nguyễn rất chú trọng đến giao thông, thường xuyên xây đắp, tu bổ, mở rộng, chỉnh sửa tuyến đường Thiên lý. Năm 1805, vua Gia Long hạ lệnh cho các địa phương đo đạt đường cái quan và các đường thủy bộ thường đi lại… Năm 1809, nhân khi đắp đường cái quan ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, vua Gia Long cho rằng đường cũ quanh co xa xôi không tiện, bèn sai Nguyễn Hoàng Đức và Lê Chất đi trông coi, lấy dây đóng nắn sửa đắp thẳng lại… Năm 1832, vua Minh Mạng dụ cho Bộ Công: “… đường cái quan nhiều chỗ núi cao, lính trạm qua đèo, Nhân dân đi lại, có nhiều sự khó khăn trở ngại, nên theo địa thế sửa chữa để tiện đi lại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 – 5 thước trở lên, đủ đi lại được; chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi ủy cho phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được thành công để ích lợi lâu dài…”. Đến triều Nguyễn, chưa có tuyến đường nào tráng nhựa, vận tải đường bộ chủ yếu bằng sức người, ngựa, voi, xe ngựa, xe bò…
Đoạn đường Thiên lý phía Bắc Bình Định, từ cầu Nước Mặn (làng Phụng Du, xã Hoài Hảo) chạy băng qua bãi cát Đồng Chu đến Gò Nổng (xã Hoài Sơn), rồi vượt qua đèo Bến Đá đến Diên Trường (thuộc phủ Tư Nghĩa). Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, quan Nội tán Nguyễn Đăng Khoa đi đo đạt phân chia ranh giới, cắm mốc trên đèo Bến Đá làm ranh giới hai phủ Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (ngày nay một bên thuộc thôn Phú Nông, xã Hoài Sơn, thị xã Hoài Nhơn, một bên thuộc thôn Đồng Văn, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ). Mỗi phủ dựng một ngôi miếu tại ranh giới, hai miếu đứng liền kề và bằng nhau nên có tên gọi là Miếu Đôi. Hiện nay di tích Miếu Đôi vẫn còn, miếu cổ hướng về phía biển, cao hơn 4m, rộng hơn 2m xây bằng gạch, mái lợp ngói âm dương, bên trong có ban thờ xây bằng gạch, vách miếu phía Bắc vẽ rồng, miếu phía Nam vẽ phụng, trước miếu là bình phong đắp nổi hình rồng, hai trụ cổng cao lớn, xung quanh Miếu Đôi có bờ tường bao bằng đá cao hơn 50cm, bên trên lợp ngói âm dương. Đến thời Pháp thuộc, đoạn này được nắn dịch xuống phía Đông, cách Miếu Đôi khoảng 2km đi qua Sa Huỳnh như hiện nay.
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp bắt đầu từ năm 1897, khi Paul Doumer được cử làm Toàn quyền Đông Dương. Pháp nhận thấy việc nâng cấp đường bộ nói riêng và hệ thống giao thông nói chung ở Đông Dương là cấp thiết. Ngoài nhu cầu phát triển kinh tế và khai thác thuộc địa, yêu cầu phát triển hệ thống giao thông, đặc biệt là các tuyến đường bộ còn do nhu cầu cơ động di chuyển quân đội để đối phó với các cuộc nổi dậy của người dân thuộc địa, những con đường nối các đồn trại của quân Pháp gọi là con đường chiến lược.
Ngay từ khi được hình thành trong công cuộc khai thác thuộc địa với tên gọi đường thuộc địa số 1, hay còn gọi đường cái quan, Quốc lộ I đã được xem là tuyến đường quan trọng nhất, là trục xương sống trong hệ thống đường thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Năm 1912, Toàn quyền Albert Sarraut ký quyết định xây dựng hệ thống đường bộ Đông Dương. Năm 1918, đường Quốc lộ I được xếp loại đường bộ chính Đông Dương, mặt đường xen kẽ một số đoạn lát đá khi qua khu đô thị, một phần mặt đường đất, chủ yếu vẫn là đường đá hoặc cấp phối.
Sau đó, Quốc lộ IA (khoảng 130km qua Bình Định) và Quốc lộ 19 (qua Bình Định 108km) được cải tạo, nâng cấp và tráng nhựa. Một số tỉnh lộ quan trọng là đường đất, đường cấp phối như tỉnh lộ chạy từ thị trấn Phù Mỹ xuống Đề Gi, từ Cầu Dợi (Hoài Nhơn) đi Hoài Ân…
Theo Lịch sử thành phố Quy Nhơn, bản đồ thành phố Quy Nhơn năm 1945, chỉ có trên 10 đường phố chính, đến những năm 1960 tăng lên 47 đường, tổng cộng 30,8km đều được tráng nhựa hoặc cán đá. Năm 1966, Quốc lộ I đoạn từ đèo Bình Đê (giáp Quảng Ngãi) đến đèo Cù Mông (giáp Phú Yên) và Quốc lộ 19 từ Quy Nhơn qua An Khê, được nâng cấp, mở rộng, tráng nhựa lại mặt đường bởi Hiệp hội các kỹ sư quân đội Mỹ (U.S. Army Corps of Engineer). Nhằm phục vụ chiến tranh, một số tỉnh lộ và đường liên tỉnh được Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở rộng, nâng cấp, như: tỉnh lộ số 6 từ Diêu Trì đi Mục Thịnh (Vân Canh) dài 39km, tráng nhựa được 7km; tỉnh lộ số 3 từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) qua Kim Sơn, Vĩnh Thạnh đến Vườn Xoài, giáp Quốc lộ 19 (Bình Khê) dài 70km; tỉnh lộ số 5 từ chợ Gồm (Phù Cát) đến Đề Gi dài 22km và đoạn nối Đề Gi với Bình Dương dài 28km; tỉnh lộ số 4 từ Bồng Sơn đến An Lão dài 30km. Ngoài ra, còn xây dựng nhiều hương lộ, như: Bồng Sơn – An Dũ dài 11km, Tài Lương – An Hội dài 15km, Chương Hòa – An Mỹ dài 4km, An Thái – An Đỗ dài 18km, Phù Mỹ – Thanh Xuân dài 12km, Hòa Hiệp – Hội Sơn dài 20km, Phù Cát – Cách Thử dài 23km, Gò Găng – Kiên Mỹ dài 19km, Lai Nghi – Gò Bồi dài 30km, Phú Tài – Mỹ Lợi dài 7km, Nhơn Thọ – An Trường dài 13km, An Tượng – Kanak dài 25km, Phi Long – Kongo dài 15km…
Vị trí địa lý, kinh tế quan trọng của tỉnh Bình Định, với ưu thế về giao thông thủy, bộ, có cảng biển quốc tế Quy Nhơn thuận lợi, những tuyến đường bộ có vai trò quan trọng trong việc kết nối nội vùng, liên vùng theo trục Bắc – Nam và trục Đông – Tây. Tuyến Bắc – Nam là huyết mạch giao thông, giao thương với các tỉnh phía Bắc và phía Nam; tuyến Đông – Tây là con đường chiến lược về kinh tế – thương mại cũng như quân sự, là cửa ngỏ thuận tiện giao thông, giao thương với ba nước Lào, Campuchia và Thái Lan. Trong tương lai, Bình Định sẽ sớm trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế – xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước.