(VNBĐ – VHDGBĐ).
Ca dao địa danh Bình Định từ góc nhìn văn hóa
Xấp lãnh An Thái một khăn trầu nguồn.
Ai đã từng ghé thăm quê hương Bình Định, ai đã từng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất rợp bóng dừa với những cánh đồng ôm bóng tháp Chàm cổ kính, hằn những vết của thời gian, hẳn vẫn nghe câu hát về những địa danh nổi tiếng gắn liền với bao thăng trầm lịch sử, là những chiếc nón Gò Găng nên thơ hay làng võ An Thái một thời oanh liệt… Lời ca mộc mạc, chân tình, khắc họa những nét đặc trưng, duyên dáng riêng độc đáo của con người xứ Nẫu.
Đề tài mà chúng tôi đang tìm hiểu đã được khá nhiều nhà nghiên cứu văn hóa địa phương đặt nền móng. Quách Tấn trong Non nước Bình Định đã khảo sát tương đối công phu về những địa danh trong địa hạt tỉnh Bình Định, tuy nhiên công trình của ông cũng chỉ dừng lại ở những địa danh lịch sử, địa lý. Nói cách khác, nhà nghiên cứu chỉ làm công tác sử học và điền dã lịch sử, thông qua việc tìm hiểu các vùng đất, ông đã dẫn chứng vài câu ca dao để minh họa cho những tư liệu điền dã của mình. Chẳng hạn, khi khảo sát về Tháp Đôi (Quy Nhơn), sau phần tìm hiểu nguồn gốc, địa điểm, Quách Tấn đã dẫn câu ca dao sau:
Huống chi tôi với mình.
Năm 1992, Nguyễn Xuân Kính trong công trình Thi pháp ca dao đã nghiên cứu một cách tương đối hoàn chỉnh về ca dao địa danh Việt Nam trong đó có ca dao Bình Định. Tuy vậy, ở công trình này, những khái quát của tác giả cũng chỉ mang tính đề dẫn mà chưa đưa ra được những chỉ xuất, dẫn chứng hay cụ thể hóa về ca dao địa danh Bình Định.
Năm 2002, trong Thông báo khoa học chuyên ngành Ngữ văn của Trường Đại học Quy Nhơn, Trần Xuân Toàn đã công bố bài viết Mấy nét về ca dao địa danh Bình Định, tác giả đã đi sâu vào phân tích những đặc trưng cơ bản về ca dao địa danh ở khu vực Bình Định trong tương quan so sánh với ca dao địa danh khu vực Nam Trung bộ. Tác giả Trần Xuân Toàn đã khẳng định: “Tháp cổ như một đặc trưng của không gian văn hóa trong ca dao địa danh Bình Định”, và thông qua những khảo sát ban đầu trong các lần điền dã văn học dân gian, tác giả đã khái quát một số cấu trúc địa danh theo phương pháp xâu chuỗi, định tính. Nhìn chung, công trình của nhà nghiên cứu Trần Xuân Toàn đã tìm hiểu khá kỹ ca dao địa danh Bình Định theo hướng xâu chuỗi, định lượng và cấu trúc. Với những mong muốn tìm hiểu về mảnh đất quê hương, nhà nghiên cứu Trần Xuân Toàn đã mạnh dạn đi vào khảo sát những cấu trúc địa danh, ngõ hầu phân tích, tìm hiểu về những vùng đất giàu truyền thống văn hóa và đấu tranh của quê hương Bình Định từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ. Tuy nhiên, công trình cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ khởi mà chưa đi vào phân tích những giá trị văn chương lịch sử của ca dao địa danh xứ Nẫu cũng như khảo sát hệ thống ca dao địa danh này từ góc độ văn hóa địa phương. Song đây cũng là những đóng góp hữu ích đối với việc khảo cứu văn hóa dân gian của địa phương.
Như vậy, nhìn nhận Ca dao địa danh Bình Định từ góc độ văn hóa không phải là hướng nghiên cứu hoàn toàn mới nhưng dung lượng khoa học, giá trị văn hóa đang còn ẩn tàng trong lớp ngôn từ nghệ thuật của các câu ca này vẫn là những điều hấp dẫn chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài.
2.1. Tính địa phương được phản ánh như một quy luật đặc thù
Ca dao địa danh là những câu ca dao gắn liền với một địa danh (tên đất, tên làng, tên sông suối…). Đó là những sáng tác dân gian của một vùng miền nhất định nên chúng có những nét đặc sắc riêng biệt mà vùng khác không thể có. Ca dao địa danh miền Bắc có nội dung sâu sắc, đằm thắm, hình thức được chải chuốt với sự thể hiện uyển chuyển dịu dàng của con người ở vùng kinh lịch, đất Tràng An. Kết hợp với những nét văn hóa Thăng Long – Hà Nội, hun đúc bởi cái lịch lãm của kẻ sĩ Bắc Hà, chẳng hạn:
Người xưa có nghĩa nắng mưa cũng tìm.
Hình ảnh “cây đa cũ”, “bến đò xưa” đã khơi gợi ý niệm về những hình ảnh không gian cổ tích, trầm lắng nhẹ nhàng của ngày xưa. Những hình ảnh tha thiết ấy gắn bó với người lao động, thành biểu tượng chung có tính chất phổ quát cho người dân xứ Bắc, cũng mang âm điệu hình thức của câu ca xứ Bắc, câu ca của người xứ nẫu lại gắn liền với những hình ảnh cụ thể và tấm lòng chân chất của vùng Bình Định:
Dẫu không nên tình nghĩa cũng đón đưa trọn niềm.
Chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ thôi cũng đã biểu lộ những sắc thái tình cảm khác biệt, đó là những tình cảm trước sau như một, thật thà không câu nệ của tình người. Đó là tấm lòng hào hiệp, trượng nghĩa của vùng đất võ Tây Sơn. Cái làm nên nét khác biệt giữa hai câu ca là những hình ảnh biểu trưng với những biểu tượng khác nhau, đậm tính chất địa phương. Sự khác biệt là một trong những tiêu chí giúp ta phân biệt những nét đặc thù mang tính địa phương.
Có thể nói, yếu tố địa phương là một trong những thuộc tính của ca dao và trở thành quy luật cơ bản của sáng tác ca dao, mà bộ phận ca dao địa danh là biểu hiện rõ nét nhất.
Ca dao địa danh Việt Nam nói chung là một tập hợp ca dao địa danh của các địa phương cụ thể. Địa danh là tên gọi riêng của một địa phương nào đó, nó đi vào ca dao địa phương như một phương thức trữ tình của người bản xứ.
Ca dao địa danh Bình Định là một bộ phận của ca dao Việt Nam nói chung, do đó ngoài những đặc điểm riêng biệt, nó cũng mang những đặc điểm chung vốn có của ca dao Việt Nam. Với tư cách là ca dao địa phương, ca dao địa danh luôn phản ánh những tính chất, đặc điểm cục bộ của địa phương đó. Nghiên cứu ca dao địa danh của một địa phương (ở đây cụ thể là vùng Bình Định) là nghiên cứu lời ăn tiếng nói, tâm tư tình cảm của cả một vùng đất.
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
Rõ ràng đây là một lời tán tỉnh dễ thương của một chàng trai đất võ, chàng trai đã khéo léo phác họa về bức tranh quê hương sơn thủy hữu tình. Bình Định với hòn vọng phu đậm chất truyền thuyết, với đầm Thị Nại trong xanh, với Cù Lao xanh duyên dáng bên bờ biển Đông, hơn thế nữa là những đặc sản dân dã của vùng quê rợp bóng dừa “bí đỏ nấu canh nước dừa”. Bình Định qua lời ca của chàng trai vừa thơ mộng vừa chân thực, hấp dẫn nhưng cũng rất đơn sơ. Những địa danh được liệt kê trong đó vừa mang tính cụ thể trong sự biểu hiện vừa mang tính chất khu biệt, địa phương hóa.
Tên riêng của địa phương đi vào ca dao địa danh vừa thể hiện đặc điểm có tính lịch sử, con người, tình yêu và sự gắn bó với địa phương đó. Nếu chẳng thế thì những câu ca mang đầy tình cảm yêu thương gắn bó của con người với tình yêu xứ sở này:
Lòng về Hà Tĩnh, dạ ái ân Quảng Bình.
Chính những tên riêng như Hà Tĩnh, Quảng Bình đã gắn bó máu thịt với con người, để con người ra đi không nỡ. Sợi dây tình cảm đã thắt chặt họ lại với nhau. Nếu con người gắn bó với địa phương thì cũng gắn với những phong tục tập quán của địa phương, bởi thế ca dao địa danh còn phản ánh những nét đặc trưng về văn hóa, phong tục của những vùng miền cụ thể:
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.
3.1. Ca dao địa danh Bình Định góp phần phản ánh những giá trị lịch sử, văn hóa, danh thắng và con người xứ Nẫu
Nói đến tính cách con người xứ Nẫu, không ai không khen tính thật thà đến thô kệch của những chàng trai, những chàng sĩ tử đất võ, thân ái, thủy chung và khí phách…
Nén hương bên tháp gọi là đền ơn.
Nhắc đến Bình Định, người ta còn nghĩ đến đây là một vùng núi non hiểm trở. Trong dãy Tây Sơn trùng điệp có hoa Xà Cú nổi tiếng. Nơi đây từng là cơ quan đầu não, là nơi xuất binh của anh hùng Mai Xuân Thưởng thuộc Linh Đỗng – Đồng Le – Bình Khê, nằm phía tây Lộc Đỗng – Đồng Hưu, cách Hầm Hô vài km đường chim bay nhưng phải đi bằng đường núi khúc khuỷu, quanh co. Cho nên sau khi đại bại ở Bàu Sấu (An Nhơn), Mai Nguyên Soái về ẩn mình tại đây, quân giặc truy lùng nhưng không thể biết được tung tích. Do đó, mỗi khi nhắc đến tên Linh Đỗng, người Phú Phong (quê hương Mai Xuân Thưởng) thường hát:
Còn gương phấn dũng còn ngày vinh quang.
Phải chăng địa linh sinh nhân kiệt? Vùng Tây Sơn nói riêng, Bình Định nói chung là “thang mộc địa” (Phan Huy Chú), phong cảnh núi non hùng vĩ, sông ngòi chằng chịt đã rèn đúc nên những nhân tài kiệt xuất cho đất nước. Với địa thế là đất long xà, sông ngòi chằng chịt đã hun đúc nên khí thiêng sông núi, tính cách con người thượng võ, nghĩa hiệp, Tây Sơn là đất tiềm ẩn “long mạch” của Tây Sơn tam kiệt mà nhiều đời đều cho rằng đây là “hoành sơn đại địa” (Phan Huy Chú). Vì có núi Bút, non Nghiên, núi Kiếm, những địa danh này đã đi vào lịch sử nước nhà, luôn có mặt trong những thời khắc vĩ đại của đất nước trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đặc biệt là gắn liền với thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn của anh em nhà Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Cũng từ đó, mảnh đất thiêng liêng này của xứ Nẫu đã đi vào thơ ca, tiếng hát của quần chúng lao động như một đặc sản văn hóa đặc thù với một niềm trân trọng tự hào: “Ai về Bình Định mà coi/ Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền”.
Một trong những di sản của tiền nhân còn sót lại trên vùng đất này là những Tháp Chàm cổ kính, rêu phong với thời gian, và người Bình Định khi ly hương không ai là không nhớ những ngọn tháp cổ kính, nghiêm trang soi bóng vào dòng chảy của lịch sử quê hương. Xuân Diệu – một nhà thơ của làng Tùng Giản, Tuy Phước, nhớ về quê mẹ Gò Bồi vẫn không thể quên những hình ảnh có tính chất biểu trưng ấy:
(Nhớ quê Nam)
Hầu hết những bóng tháp Chàm đều đi vào ca dao địa danh của Bình Định:
Cảm thương ông Hậu thủ thiền ba năm
Non xanh nước cũng xanh rì…
Những ngọn tháp ấy đã trở thành những danh lam thắng tích, cổ kính, tô đậm nét đẹp quê hương, sáng rỡ cảnh đẹp đất võ, đó là không gian văn hóa đặc trưng trong ca dao địa danh Bình Định, đây cũng là một nét tư duy mang tính biểu tượng của con người xứ Nẫu. Sự ghi nhận địa danh trong ca dao thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung, những nét đặc trưng tình cảm, những nếp tư duy về con người cảnh vật của con người đất võ… nó nhắc nhở người ta luôn nhớ về cội nguồn nơi chôn nhau cắt rốn và dưỡng dục ta lớn khôn, chỉ có những cảm xúc thật sự thương yêu gắn bó với quê hương mới có thể phác họa được vẻ kỳ thú của mảnh đất này:
Ngâm câu thủy tú sơ kỳ thảnh thơi.
Triết lý về quê hương, sự gần gũi gắn bó giữa người và cảnh trong tâm hồn của thi nhân, nghệ nhân dân gian hay những con người bình dân thật dung dị, nó đã được thổi hồn bởi những cảm xúc thật chân chất, mộc mạc, chân tình. Những địa danh đi vào các câu ca dân gian vừa làm sống dậy những nỗi niềm, vừa ngợi ca những thắng tích những cũng là giới thiệu những danh lam cùng bè bạn. Sự hòa quyện đó làm cho ca dao địa danh Bình Định thêm duyên dáng, xinh tươi.
GS. TS. Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao đã cho rằng bộ phận ca dao địa danh thể hiện tình yêu nam nữ chiếm tỷ lệ cao hơn hết trong mảng ca dao địa danh. Ông cho rằng: “Ca ngợi tình yêu nam nữ, phản ánh tình cảm vợ chồng là chủ đề phổ biến nhất…”, ông thống kê được trong tổng số 377 lời đã có 123 lời (chiếm 32%) được sáng tác và lưu truyền theo chủ đề này.
Tương tự như thế, trong ca dao địa danh Bình Định, số lượng câu ca về tình cảm đôi lứa vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ tình yêu là đề tài muôn thuở của con người xưa nay. Tình cảm đó có thể là tình cảm vợ chồng chưa chăn ấm gối êm đã vội chia tay vì việc binh lửa, người chồng đi lính thú, vợ vượt đèo trèo núi thăm chồng. Đây là tiếng hát ai oán của một người như vậy:
Hay vợ chú lính trèo hòn Cù Mông.
Đôi lứa thương nhau thường hẹn biển thề non, mượn những vật có giá trị lâu bền như một người bảo chứng cho tình cảm của mình:
Nguyền lên Cây Cốc, vạn Gò Bồi ngược xuôi…
Đôi ta hết đứng hết ngồi với nhau.
Dễ chi nhân ngãi mà rời được nhau.
Hình ảnh cô gái trong đêm dệt vải mà lòng trông vọng về Đập Đá, Gò Găng, những thị tứ sầm uất của vùng An Nhơn như muốn nhắn gửi tấm lòng mong đợi đến chàng trai, người quân tử hãy còn rong ruổi trên đường công danh “Anh về Đập Đá, Gò Găng/ Để em dệt vải sáng trăng một mình”. Họ cách xa nhau, đợi chờ nhau nhưng không bao giờ chia ly bởi giữa họ có mối dây ràng buộc là chiếc nón Gò Găng duyên dáng và xấp vải lụa An Thái làm mối thề nguyền.
Song song với những lời ca hẹn biển thề non là những câu, những lời bộc lộ lòng quyết tâm sắt đá của tình cảm lứa đôi:
Dừa bao nhiêu trái dạ trông chàng bấy nhiêu.
Quê hương Tam Quan trồng dừa thành rừng, ai đó nếu một lần được đặt chân chắc sẽ nghe câu hát:
Cha từ, mẹ bỏ cũng tìm theo anh.
Hình ảnh xứ dừa xuất hiện trong câu ca như là tấm lòng yêu thương da diết của chàng trai, chàng vì yêu nàng đã vượt suối băng sông tìm đến với nàng:
Thương em anh mới leo trèo đến đây.
Vẻ đẹp chân tình, mộc mạc có phần thô ráp của con người đất võ được phản ánh qua những câu ca dao địa danh càng góp phần khẳng định và tôn vinh những đặc trưng văn hóa của đất và người Bình Định. Nó khẳng định đời sống tình cảm mãnh liệt, đa dạng và phong phú trong đời sống lao động. Những địa danh ấy như những chất xúc tác đưa con người ngày càng gần nhau hơn.
Gặp cô hàng bún nên duyên vợ chồng.
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.
Nói đến Bình Định ngoài những chiến công oanh liệt, người ta còn nhắc đến những sản vật địa phương như những biểu tượng là nên truyền thống của vùng đất ấy. Cùng với bánh ít, trong văn hóa ẩm thực vùng Tuy Phước, món nem Chợ Huyện mà mỗi khi nhắc đến vẫn còn thòm thèm:
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem tháp Chàm.
Theo các tài liệu cũ, nem chợ Huyện có hai loại: nem chua và nem nướng. Nem thường được gói bằng lá ổi bên trong, bên ngoài gói lá chuối, vuông vức và xâu thành chùm. Cầm chiếc nem nhấm nháp với ngụm Bàu Đá thì sảng khoái vô cùng. Do đó không phải ngẫu nhiên mà nem chợ Huyện được đưa vào câu ca như vậy: “Muốn ăn đi xuống/ Muốn uống đi lên/ Dạo khắp bốn bên/ Chợ Thành, chợ Giã/ Chợ Dinh bán chả/ Chợ Huyện bán nem…”.
Cùng với Tuy Phước, đầm Thị Nại cũng là nơi có sản vật phong phú, Thị Nại giàu cá và tôm nên có câu:
Ăn cá lá nướng, cá kình nấu chua.
Đầm Thị Nại là vùng nước lợ, dân địa phương gọi là nước sàng hai, kéo dài từ thành phố Quy Nhơn đến Cồn Chim rồi chạy dài ra đến vạn Gò Bồi, đây cũng là nơi sản xuất nước mắm nổi tiếng với những ghe thuyền buôn bán của Triều Châu vận chuyển ngược xuôi:
Bán mắm, bán cá lần hồi cưới em.
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.
Và Gò Bồi đã trở thành thi hứng cho nhà thơ Xuân Diệu, nhớ quê ngoại thân thương và ông cũng không không thể quên được vị nước mắm đằm thắm của Gò Bồi:
(Nhớ quê Nam)
Ở đất võ Bình Định, mỗi địa phương nổi tiếng với một sản vật, do đó quần chúng đã truyền tụng: “Nón ngựa Gò Găng/ Bún Song Thằng An Thái/ Lụa Đậu Ba An Ngãi/ Xoài tượng chín Hưng Long”.
Những sản vật ấy cùng với những địa danh đã đi vào đời sống dân dã thành nguồn nước không bao giờ vơi cạn. Nó luôn đậm đà như lòng người Bình Định chân thành hiếu khách.
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.
Một địa danh, một nhân danh đã xuất hiện trong câu ca. Truông Mây còn gọi là Hóc Sấu, thuộc xã Ân Đức, huyện Hoài Ân, chạy từ thôn Phú Thuận ở phía Bắc thôn Vĩnh Hòa phía Nam, có độ dài chừng vài cây số, hai bên dây mây mọc thành rừng, gai góc mọc tua tủa nên người địa phương gọi là Truông Mây. Lía là trang tuấn kiệt, xuất thân bần hàn, sống vào thời nhà Nguyễn. Xét về mặt lịch sử, cuộc khởi nghĩa do Lía cầm đầu là cuộc khỏi nghĩa, thuộc phong trào nông dân cuối thế kỷ XIX, mục đích là để tiêu diệt bọn tham quan ô lại, lấy của nhà giàu bạc ác chia cho dân nghèo. Cuộc khởi nghĩa này được nhân dân ủng hộ, Lía qua đời, Truông Mây trở thành chốn linh thiêng. Như vậy, địa danh là Truông Mây, nhân danh là chú Lía, đó là những yếu tố đảm bảo tính xác thực về mặt lịch sử. Do đó những địa danh, nhân danh trong những câu ca dao địa danh là không chỉ là tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng của tâm hồn xứ Nẫu mà còn là những chứng cứ xác thực minh chứng cho tâm hồn, nhân cách của con người đất võ trung chính, nghĩa tình.
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
Như thế, địa danh trong ca dao Bình Định ngoài việc đảm bảo tính xác thực địa phương thì nó còn mang tính hư cấu phi thực tế, song những hư cấu này lại rất cần thiết trong vấn đề trao đổi tình cảm lứa đôi, đó cũng là một trong những thủ pháp quen thuộc trong ca dao địa danh Bình Định.
Ca dao địa danh không chỉ phản ánh những tâm tư nguyện vọng thật thiết tha, chân tình của người và đất Bình Định mà còn là những biểu hiện rõ nhất về đặc tính văn hóa của xứ Nẫu. Tiếp cận hệ thống ca dao viết về địa danh, đặc biệt là bộ phận ca dao địa danh Bình Định, ta cảm thấy mến yêu hơn quê hương đất võ, nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, là vùng đất thép anh hùng của các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược qua bao thế hệ. Bộ phận ca dao này đã góp mặt làm phong phú hơn kho tàng ca dao Việt Nam, là những cứ liệu lịch sử, là đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu địa danh học, văn hóa, Hán Nôm, tín ngưỡng…
Văn tế Hán Nôm Bình Định với sự bảo tồn và phát triển văn hóa địa phương
1. Văn tế Hán Nôm với sự bảo tồn và phát triển văn hóa làng xã, văn hóa tộc họ ở Bình Định
Trong tiến trình lịch sử Bình Định, quá trình hình thành các cộng đồng dân cư là cơ sở nhân học quan trọng góp phần tìm hiểu những đặc trưng của tiểu vùng văn hóa này, nhất là văn hóa làng xã. Xét trong bối cảnh văn hóa Hán Nôm, hệ thống địa chí, điền bạ, gia phả, hương ước khoán lệ và văn tế là những di văn quan trọng cần được quan tâm. Vai trò của hệ thống này rất quan trọng đối với việc phát triển văn hóa địa phương và văn hóa làng xã của mỗi vùng. Đối với những quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của lễ giáo, văn hóa dòng họ luôn được cơ sở quan trọng thiết yếu đối với việc hình thành một tổ chức làng xã.
Ở Trung Hoa, quan niệm về quốc gia và họ tộc là những vấn đề quan trọng hình thành nên những ràng buộc con người trong các mối quan hệ phức tạp. “Tại gia chí hiếu, tại quốc tận trung” hay “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy” là những câu nói luôn được nhắc nhở đối với mọi người. Ở Việt Nam, văn hóa dòng họ trở thành một nét đặc thù, trước hết bởi văn hóa căn bản của Việt Nam là văn hóa làng. Riêng đối với khu vực Bình Định, mỗi làng là một khu dân cư khép kín, trong đó là các dòng họ sống quần tụ và có những nét khác biệt so với các khu vực khác ở Bắc Trung bộ và Bắc bộ. Do chịu tác động của quá trình di cư lịch sử nên các họ tộc ở khu vực này có những nét đặc trưng riêng, nó không thật sự cố kết như họ tộc ở miền Bắc nhưng lại là một hệ thống tương trợ lẫn nhau khi các thành viên có những bất trắc trong cuộc sống.
71 văn bản được sưu tầm là những cứ liệu điền dã quan trọng giúp cho chúng ta có thể tìm hiểu sự hình thành phát triển văn hóa và văn hóa dòng họ ở Bình Định. Nó còn là tài liệu nghiên cứu về các sự kiện và nhân vật lịch sử đất nước, hoặc các triều đại mà vị trong các dòng họ có tham gia như họ Trần, họ Đào ở Hoài Nhơn; họ Đào ở Tuy Phước; họ Diệp ở Vĩnh Thạnh, họ Quách ở Tây Sơn… Tất nhiên, văn tế không thể hiện một cách trực tiếp diện mạo của làng xã như gia phả, hương ước nhưng nó lại là phương diện để tìm hiểu những vấn đề mang tính tín ngưỡng của làng xã, đó là tín ngưỡng thờ chư thần, phật, tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng. Chẳng hạn tín ngưỡng cúng cô hồn trong các làng vào tiết Thanh Minh (tại miếu Thanh Minh) hay rằm tháng bảy (tại các chùa của làng, Niệm phật đường của các tư gia hào phú). Ông Trần Đình Tân đã từng đại diện cho làng Cảnh Vân (Phước Thành, Tuy Phước) viết bài Văn tế cô hồn và được dùng để đọc hằng năm khi cúng miếu Thanh Minh. Đây là tập tục xưa bày nay làm, ông cũng giúp cho người dân địa phương thực hiện tín ngưỡng cúng tế các oan hồn nhằm cầu sự bình an và khang thái cho làng xã:
Đắp mồ dẫy cỏ, đốt hương vàng vây hội Đạp thanh;
Sống khôn thác thiêng, nguyện hồn phách qua miền tịnh độ.
Sinh phẩm kính dâng lễ bạc, nghe trống chiêng đều đến hưởng hâm;
Hương hoa thơm thấu suối vàng, nhớ làng xóm hết lòng phò hộ.
(Văn tế cô hồn)
Văn hóa tang tế của làng xã ở Bình Định cũng có những nét khác biệt, điều này cũng được thể hiện qua Văn tế tống táng của hòa thượng Bích Liên. Đây là bài văn tế được viết theo lối lục bát, giọng điệu khá chua xót, thể hiện nỗi đau đớn của người sống khi tiễn đưa người quá cố về nơi an táng. Bài văn tế này còn được dân địa phương gọi là Bài ca tống táng (Lộc Xuyên):
Vong hồn ơi! Hỡi vong hồn! /Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa?
Tỉnh rồi một giấc say sưa, /Cầu xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về Cực lạc nước kia, /Cho xa hang quỷ, cho lìa kiếp ma.
Nhờ ơn đức phật Di Đà, /Phóng ra một loạt chói lòa hào quang.
Trong các hoạt động mang tính nghi thức tín ngưỡng của làng xã ở Bình Định và trong các gia tộc, chúng ta thường bắt gặp những bài văn tế cúng. Có thể là những bài văn tế bằng chữ Hán hay bài văn tế chữ Nôm đã được phiên sang Quốc ngữ. Đây là thể loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng thương tiếc của tác giả và người thân đối với một hoặc nhiều người đã mất. Trong cộng đồng gia tộc, văn tế chính là sợi dây linh thiêng nối giữa người đã khuất với người con cháu, giữa người già với người trẻ, giữa người trong làng với các con cháu đã đi khỏi làng, nối cõi âm với cõi dương, nối linh thiêng quá khứ vào đời sống hiện tại. Văn tế được đọc trong những ngày giỗ kỵ hoặc ngày hiệp kỵ họ với sự thành kính của các thành viên trong họ. Các bài văn hiệp tế của các danh gia vọng tộc là những văn bản giàu tính triết lí và nghệ thuật. Qua những bài văn tế đó, các tộc họ không chỉ tự hào về truyền thống cha ông và còn giáo dục, truyền dạy cho con cháu phải noi gương mà sống. Trong bài Văn tế hiệp tộc họ Lê thôn Nhơn Ân (Phước Thuận, Tuy Phước), có đoạn viết:
Tại Bắc qua phân
Tìm Nam dựng nghiệp
Nhơn Ân áo vải, phấn nghĩa kỳ khai phá đất hoang
Bình Định khí thiêng, tung kiếm thép mở mang bờ cõi
… Tiếng vang lừng, thanh bạch khắp muôn phương,
Miền lân cận, anh em đều qui phục.
Có thể nói, lịch sử đã trải qua những bước thăng trầm, sự thay đổi của đời sống xã hội đã dội vào sinh hoạt văn hóa làng xã, gia tộc và sinh ra những tạo lực làm thay đổi diện mạo của cộng đồng làng xã và tộc họ ở Bình Định. Nhưng qua nội dung của những văn bản văn tế Hán Nôm, chúng ta có thể tiếp thu chắt lọc những nét đẹp nhân văn của những đạo lý mà tiền nhân đã dạy, đã gửi gắm và xây nền đạo đức mới trên nền tảng nhân đức của làng xã và dòng tộc là một việc đáng suy ngẫm và cần thiết trong quá trình tìm hiểu lịch phát triển làng xã Bình Định trong quá khứ và giai đoạn hiện nay.
2. Văn tế Hán Nôm Bình Định với sự bảo tồn và phát huy văn hóa địa phương hiện nay
Văn tế Hán Nôm Bình Định khá phong phú và đa dạng với rất nhiều loại hình khác nhau. Là nguồn văn liệu, sử liệu hết sức quan trọng, quý giá và chứa đựng những giá trị lịch sử, nhân văn to lớn, di sản văn tế Hán Nôm góp phần chứng minh cho quá trình hình thành và phát triển diện mạo văn hóa của Bình Định trong tiến trình lịch sử… Do đó, việc khai thác và bảo tồn nguồn di văn Hán Nôm quý giá này vẫn chưa được khai thác và phát huy phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa của địa phương. Để bảo tồn và phát huy những giá văn hóa tinh thần và vật thể có liên quan đến di sản văn bản, văn học Hán Nôm của Bình Định hiện nay, nhất là đối với bộ phận văn tế trong các tư gia, làng xã, đền thờ trên địa bàn tỉnh, các nhà quản lý cần phải có một chính sách cụ thể với những bước đi hiệu quả.
Một thực tế đang diễn ra là, cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội hiện đại rào cản văn tự đã và đang tạo ra những hố ngăn giữa các thế hệ người Việt với khối tư liệu này. Trong Một số suy nghĩ về văn tế Việt Nam thời trung đại nhà nghiên cứu Phạm Tuấn Vũ đã nhận xét: Ngày nay văn tế tồn tại chủ yếu với tư cách là hiện tượng của sinh hoạt thế tục và sinh hoạt tôn giáo, không phải là một thể loại văn học như quan niệm của người Việt Nam và Trung Hoa xưa kia .
Điều này hoàn toàn phù hợp với văn tế Hán Nôm trong bối cảnh hiện nay. Là một vùng đất có nền văn hóa đặc trưng đan xen và giao thoa giữa Việt – Chăm – Hoa, việc nghiên cứu hệ thống văn tế Hán Nôm Bình Định sẽ mở ra nhiều vấn đề thú vị, nhất là vấn đề đa dạng văn hóa. Sau khi nghiên cứu chuyên đề chuyên sâu về nội dung và hình thức nghệ thuật của văn tế Hán Nôm Bình Định, chúng tôi nhận thấy việc bảo tồn, phát huy những giá trị mà di văn để lại cho chúng ta sẽ góp phần nghiên cứu những phương diện cụ thể trong đời sống tinh thần, đa dạng văn hóa và khẳng định những giá trị vĩnh cửu của các di tích lịch sử (đền thờ, lăng mộ), duy trì các tập tục tế cúng các anh hùng, thần linh và phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, cúng tế tổ tiên của các dòng tộc trong cộng đồng văn hóa Bình Định hiện nay.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là việc tổ chức biên phiên dịch, chú giải, xuất bản và phổ biến những bài văn tế Hán Nôm Bình Định mô phạm, chuẩn mực là việc cần được quan tâm và đầu tư chuyên môn thật sự sâu sắc. Đây là trách nhiệm không chỉ của các nhà quản lý, các chuyên gia văn hóa, Hán Nôm học mà còn là bổn phận của các thế hệ con dân Bình Định để truy niệm tiên tổ đã để lại một di sản văn hóa đáng trân trọng. Khuyến khích ngành giáo dục hay các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh, tuyển chọn, biên soạn và xây dựng các bài giảng giới thiệu về hệ thống văn tế Hán Nôm Bình Định. Thông qua đó, có thể giáo dục lòng yêu nước và tự hào về truyền thống văn hóa của quê hương, xứ sở.
Các bảo tàng, di tích, thư viện ở Bình Định chính là những thiết chế văn hóa có điều kiện tham gia làm tốt việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy di sản văn bản văn tế Hán Nôm. Việc tiếp cận những tư liệu văn tế Hán Nôm trong các di tích, đền thờ, tư gia là rất khó, vì những di sản này thường để trong tráp rồi khóa lại, chỉ đến ngày vía thần, hiệp kỵ tại đình miếu, từ đường hoặc lễ hội với đầy đủ các thành phần trong ban quý tế mới được mở ra. Do vậy, cần tạo dựng quan hệ, niềm tin và một tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng… để người dân có thể chụp, ghi chép lại các văn bản Hán Nôm này. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tư liệu hóa, số hóa hệ thống văn bản là một trong những phương cách bảo tồn văn hóa Hán Nôm trong điều kiện hiện nay. Bên cạnh đó, cần công bố trên internet, xây dựng các website chuyên san để nhiều người có thể truy cập, tìm hiểu, nghiên cứu.
Nhìn chung, không chỉ chứa đựng nhận thức, tư duy, triết lý nhân sinh quan… của tiền nhân, hệ thống tác phẩm văn tế Hán Nôm Bình Định còn mang trong mình tinh thần và tâm hồn dân tộc. Nó chính là nhân chứng của lịch sử, là sợi dây liên hệ quá khứ với hiện tại. Trong dòng chảy của cuộc sống đương đại, bộ phận di văn này ngày càng xa dần và rơi vào quên lãng. Nếu không gắn kết việc bảo tồn, phát huy những giá trị của văn tế Hán Nôm với việc phát triển toàn diện văn hóa xã hội thì e rằng không bao lâu nữa hệ thống văn bản này sẽ mất hẳn. Văn bản chữ Hán, Nôm ở Bình Định đã trải qua một lịch trình phát triển dài lâu và cần phải phát huy giá trị cốt lõi của nó. Do vậy, việc tìm hiểu hệ thống văn bản văn tế Hán Nôm cũng là một phần việc quan trọng của công cuộc bảo tồn và phát huy văn hóa Hán Nôm ở Bình Định trong thời gian tới.
Cũng giống như các thể loại văn học khác ở Bình Định, văn tế Hán Nôm đề cao những giá trị luân lý, đạo đức xã hội, ngợi ca tinh thần yêu nước, nhân đạo của nhân dân địa phương. Thông qua những đối tượng và sự kiện cụ thể, các tác phẩm văn tế cũng bộc lộ những tiếng cười sảng khoái, châm biếm, giúp cho người đọc có cơ hội thanh lọc tâm hồn. Xét về phương diện hình thức nghệ thuật, văn tế Hán Nôm Bình Định sử dụng nhiều văn thể. Mỗi tiểu loại văn thể được sử dụng đều phát huy những ưu thế vốn có, góp phần thể hiện những nội dung quan trọng mà người sống muốn gửi đến người đã khuất. Hệ thống văn thể của văn tế Hán Nôm Bình Định cũng có sự đa dạng nhưng phân bố không đồng đều ở các tiểu loại khác nhau. Đây cũng là một hiện tượng văn hóa đáng quan tâm. Với hai hệ thống ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt, những tác phẩm văn tế Hán Nôm Bình Định đã phát huy triệt để những giá trị văn học, tạo nên diện mạo văn hóa đa dạng và hấp dẫn. Bên cạnh đó, văn tế Hán Nôm còn là những cơ sở nhân học góp phần phát triển văn hóa làng xã, phát huy và bảo tồn văn hóa Bình Định trong điều kiện mới.
Bút danh: Tam Bất Hiên.
Năm sinh: 1981.
Nơi sinh: Quy Nhơn, Bình Định.
Quê quán: Mỹ Lợi, Phù Mỹ, Bình Định.
Điện thoại: 0914.035.159.
Email: minhhaiquynhon@gmail.com.Công trình nghiên cứu:
Ca dao – Dân ca Nam Trung bộ (thành viên, 2009).