(VNBĐ – Truyện ngắn dự thi).
1.
Một buổi sáng trên kinh đô Vọng Các nước Xiêm La vào đầu tháng Ba năm 1784. Đám người hầu đã sửa soạn xong nhưng vua Rama I vẫn chưa lên triều. Ông muốn xem tấm bản đồ vẽ vương quốc của mình cùng các xứ sở khác lâu hơn một chút. Đó là tặng phẩm của thương nhân Bồ Đào Nha để xin được giao thương. Đôi mắt thâm sâu của vị hoàng đế khai triều Chakri dừng lại ở dải đất uốn lượn bên bờ biển Đông. Nơi đó, một vương quốc hùng mạnh không kém đã định hình từ lâu và tương lai sẽ tranh giành ảnh hưởng với Xiêm La trong khu vực. Đó chính là vương quốc Đại Việt.
Cả Xiêm La và Đại Việt khá giống nhau về mặt địa chính trị. Ở phía Tây, Xiêm La phải đối mặt với Đế chế Miến Điện hùng mạnh thì ở phía Bắc, Đại Việt phải thường xuyên cảnh giác với gã khổng lồ Trung Hoa. Không gian địa lý ấy khiến cho những vương triều cai trị ở Xiêm La và Đại Việt nhận thấy rằng, Tây tiến (với người Thái) và Bắc tiến (với người Việt) là điều không thể. Muốn mở rộng lãnh thổ, họ phải nhanh chân tiến về những miền đất yếu hơn. Xiêm La bành trướng về phía Đông, thần phục các tiểu quốc Luang Prabang, Viên Chăn, Champasack, Đại Việt tiến về phương Nam, đánh bại và thôn tính đất đai của vương quốc Chăm Pa. Cuối cùng, thanh gươm mở cõi của cả hai bên chạm nhau ở mảnh đất Cao Miên.
Người Việt là một đối thủ không dễ đối phó. Hẳn nhiên. Rama I tặc lưỡi. Khi còn là tướng cầm quân dưới thời vương triều Taksin, ông đã chạm trán với họ trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng tại Cao Miên. Người Việt dũng mãnh và mưu lược hơn những đối thủ mà người Thái từng đụng độ. Nhưng cái chớp mắt của số phận cũng khá thú vị, từ chỗ là kẻ thù trên chiến trường, Rama I kết mối hữu hảo với một ông hoàng nước Việt đang phải lưu vong nhưng trong lòng luôn khát khao khôi phục vương triều của tổ tiên.
Người Thái gọi ông hoàng lưu vong ấy là Ong Chiang Sue (Ông Thượng Sư). Còn ở quê hương, người Việt gọi ông với cái tên: Nguyễn Ánh.
Một chiếc hộp nhỏ làm bằng gỗ hương đặt gần tấm bản đồ. Trong ấy đựng kỷ vật gợi nhớ về mối giao hảo của ông với Nguyễn Ánh. Một mũi tên bị bẻ làm đôi, chỉ còn một nửa. Không có nửa mũi tên ấy, có lẽ Rama I sẽ không thể nào bước lên ngai vàng như hôm nay(1). Ân nghĩa năm xưa, Rama I không quên. Sự che chở và đối đãi rộng lượng của ông với Nguyễn Ánh thể hiện rõ điều đó. Nhưng chính trị không có chỗ cho những ơn nghĩa đơn thuần, đằng sau ấy, những toan tính lợi ích vẫn luôn hiện hữu. Chỉ là, nó khéo léo thoắt ẩn thoắt hiện dưới lớp sương mờ của tình bằng hữu.
2.
Trong khi đám quan lại Xiêm La phải quỳ mọp đầy tôn kính, Nguyễn Ánh lại được vua Rama I cho ngồi xếp bằng đối diện với mình, trên một tấm thảm nhung mềm mại, dù vị thế hai người hoàn toàn khác nhau. Một ông vua ở trên ngôi cao, oai phong và quyền lực. Một ông hoàng vong quốc ở “chiếu dưới”, nhún nhường và mong cầu. Cạnh đó, đám bề tôi của Nguyễn Ánh là Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Hội vẫn lặng lẽ đảo mắt, dò xét ý tứ người Xiêm đặng mách đường chỉ bước cho Chúa thượng của mình.
Nguyễn Ánh cho dâng lễ vật. Món lễ vật ấy khiến vua quan nước Xiêm rất đỗi hài lòng, nhưng Ánh đâu có ngờ rằng, nó sẽ khiến mình bị sử sách chê cười đến ngàn sau.
– Cây hoa kim ngân này quả thật tinh xảo. Tinh xảo hơn hẳn những cây hoa kim ngân mà các chư hầu khác dâng lên nước ta.
Một gã quan béo ú thốt lời. Đám quan lại cũng rì rầm. Họ nói bằng tiếng Xiêm nhưng cách họ hả hê, chỉ trỏ vào lễ vật, cũng đoán được phần nào. Hoa kim ngân hay còn gọi là cây vàng cây bạc, là một cây giả có lá và hoa được làm bằng bạc hoặc vàng. Trong tiếng Xiêm, hoa kim ngân được gọi là Bunga mas, một loại cống phẩm do các nước phiên thuộc của Xiêm La trên bán đảo Mã Lai tiến cống ba năm một lần. Trong nghi lễ quốc gia bấy giờ, việc dâng hoa kim ngân lên vua Xiêm La không khác nào biểu trưng cho sự thần phục của kẻ chư hầu.
Rama I cho người tiếp nhận. Châu Văn Tiếp ghé tai chủ nhân và dịch lại lời của đám quan nước Xiêm. Một cái nhíu mày rất nhẹ vụt qua vầng trán rộng của Nguyễn Ánh rồi biến mất ngay sau đó. Nhưng nó đã kịp đọng lại trong đôi mắt của Rama I.
– Không được nói những lời bất nhã với Ông Thượng Sư! – Rama I cất lời, tiếng vang cả điện – Ta nhận lễ vật này như món quà của một người bạn đến chơi trên đất của ta.
Đám quan lại im bặt, run rẩy. Rama I hoàn toàn không muốn Nguyễn Ánh có cảm giác bị đối xử như một chư hầu. Nhưng với Ánh, điều ấy không còn quan trọng. Sau những thất bại liên tiếp trước quân Tây Sơn, những lần trốn chạy khổ sở, những lần thoát chết trong gang tấc, Nguyễn vương hiểu rằng, đây không phải là lúc để tâm đến những tiểu tiết bang giao.
Nguyễn Ánh nhìn Rama I đầy cảm kích nhưng chưa vội hồi đáp. Ông biết mình nên kiệm lời vào lúc này bởi phần quan trọng của chuyến đi sắp đến. Cuộc thương thảo với vua Xiêm La để mượn binh đánh Tây Sơn, nhằm giành lại đất Gia Định, trước khi muốn nghĩ đến những điều xa hơn.
– Cuộc chiến nào cũng có những hy sinh! Sẽ có rất nhiều người đàn bà Xiêm La khóc thương cho những người con, người chồng của họ… – Rama I chậm rãi nói.
– Nếu Quốc vương đồng ý xuất binh, thứ ngài nhận được sẽ còn nhiều hơn nước mắt của đàn bà xứ này!
Nguyễn Ánh quả quyết. Rama I cười lớn:
– Ta sẽ nhận được gì từ Ông Thượng Sư?
Nguyễn Ánh thoáng chút bối rối. Quả thật, trong tay Ánh chẳng có gì cả. Đất đai bị kẻ thù chiếm mất, quân tướng mỗi nơi mỗi ngả, lòng dân nửa vọng chúa
Nguyễn, nửa hướng Tây Sơn. Ánh có gì trong cuộc mặc cả này đây?
– Một đồng minh đáng để tin tưởng!
Châu Văn Tiếp cất lời thay chủ:
– Tâu đức vua anh minh! Tham vọng của Tây Sơn đâu chỉ dừng ở đất Gia Định. Nếu Chúa tôi thất thế, Tây Sơn sẽ thêm nanh thêm vuốt. Từ Gia Định, chúng sẽ tiến về Cao Miên để tranh giành với Xiêm La. Đến lúc đó, ở phía Tây có Miến Điện, phía Nam có Tây Sơn, chẳng phải quý quốc tự đưa mình vào thế “lưỡng đầu thọ địch” hay sao?
Rama I vẫn không biến sắc. Còn Nguyễn Ánh. Vẫn im lặng. Chờ đợi. Trong giây phút ấy, hoàng đế Xiêm La chợt nhớ về tấm bản đồ của thương nhân Bồ Đào Nha. Tâm trí ông hiện lên một đồng bằng rộng lớn và màu mỡ, nơi con sông Mekong chia làm hai nhánh rồi đổ ra biển, nơi ấy hứa hẹn những vụ mùa bội thu, những làng ấp trù phú và đông đúc để thu thuế và bắt lính. Đồng thời, những pháo đài chặn bước tiến của người Việt về phương Nam sẽ được dựng lên ở đó.
Cái giá quá hời cho một cuộc viễn chinh.
3.
Từ tháng Tư đến tháng Bảy năm 1784, năm vạn quân thủy bộ Xiêm La ồ ạt tiến vào Gia Định. Theo sau là mấy ngàn quân Nguyễn Ánh do Đại đô đốc Châu Văn Tiếp chỉ huy và Mạc Tử Sanh làm tham tướng dẫn đường. Liên quân Xiêm – Nguyễn nhanh chóng chiếm Rạch Giá, Trà Ôn, Mãn Thích, Long Hồ. Phò mã nhà Tây Sơn là Đô úy Trương Văn Đa chống không nổi phải vừa đánh vừa lui. Tin dữ bay về thành Quy Nhơn, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc vội cử Long Nhương Tướng quân Nguyễn Huệ làm Nguyên soái đem binh thuyền ứng cứu.
Ngày xuất quân, biển động dữ đội, sóng ầm ầm xô vào cửa biển Thị Nại. Trên chiếc soái hạm “Định Quốc Đại Hiệu” sơn màu đỏ tía của quân Tây Sơn neo trước cửa biển, Nguyễn Huệ thoáng chút trầm tư, nhưng không phải vì chiến sự trong Nam.
– Bẩm, sự tình là như vậy!
Viên hộ vệ chậm rãi thuật lại những điều mình tra xét được.
Nguyễn Huệ cười trừ:
– Ta vốn không tin chuyện quỷ thần. Một đời ta trên lưng ngựa, đánh trận bằng gươm đao, thắng thua là lẽ thường tình. Há lại mê tín vì thua vài trận mà đi đào lăng cuốc mả các chúa Nguyễn? Chuyện hoang đường như thế mà bọn bề tôi Nguyễn Ánh vẫn bịa ra được.
Người hộ vệ kính cẩn:
– Bẩm, việc này ta cũng nên bố cáo cho thiên hạ được biết, kẻo dân chúng ngờ vực Tây Sơn ta tàn bạo, rồi chính thanh danh của chủ tướng cũng bị miệng lưỡi kẻ ác làm cho hoen ố.
Nguyễn Huệ lắc đầu:
– Có những chuyện càng giải thích sẽ chỉ càng thêm nghi ngờ. Ta “cây ngay” sao phải sợ “chết đứng”. Các đời chúa Nguyễn có công khai phá đất đai, vỗ về trăm họ, nhưng đến đời Định vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ còn là bù nhìn trên ngai, để gian thần Trương Phúc Loan lộng hành, vua quan tham tàn, chính sự thối nát, muôn dân đói khổ lầm than. Tây Sơn ta dấy nghĩa là theo mệnh trời, hợp lòng dân. Chỉ tiếc thay, mấy đời chúa Nguyễn anh minh, phúc độ lại nảy nòi ra tên Nguyễn Ánh bất chấp thủ đoạn, dám rước giặc vào nhà để tranh quyền đoạt vị, gây bao khổ đau cho dân chúng phương Nam.
Nói đến đó, Nguyễn Huệ nghiến răng, vung thanh long đao mà nói lớn:
– Lần này vào Gia Định, ta thề sẽ giết sạch lũ giặc Xiêm không chừa tên nào. Để ngàn đời sau, dù có ăn gan hùm, gan cọp, bọn ngoại bang cũng không dám xâm phạm cương thổ nước Nam. Tên nghịch tặc Nguyễn Ánh phải bắt bằng được mà xẻ thịt lột da, làm gương cho kẻ khác.
Truyền lệnh!
Gióng trống!
Căng buồm!
Toàn quân xuất phát!
Tùng tùng! Tùng tùng! Tùng tùng!
Tiếng trống trận từ soái hạm nổi lên, rồi dần dần lan sang các thuyền khác. Những cánh buồm căng gió với những tay chèo lực lưỡng đưa đoàn hùng binh Tây Sơn đạp từng con sóng ra khỏi cửa Thị Nại. Giữa khoảng không bao la, những cơn gió chướng cứ rít mãi liên hồi.
4
Trại quân Nguyễn không xa trại quân Xiêm là mấy. Lê Xuân Giác, người Gia Định, mưu sĩ của Châu Văn Tiếp, đang kiểm đếm quân lương, bất giác nhìn lên trời u ám chợt thấy điềm chẳng lành.
Đất Gia Định chịu ơn các chúa Nguyễn khai phá, nên khi Nguyễn Ánh tập hợp lực lượng chống Tây Sơn thì người Gia Định theo về rất nhiều. Lê Xuân Giác cũng đầu quân dưới trướng Châu Văn Tiếp, mong giúp họ Chúa có ngày quật khởi. Giác xuất thân là gia đình lưu dân từ miền Trung vô Nam khẩn hoang, cả tuổi thơ lênh đênh theo sông nước miệt vườn. Mọi thứ ở đất này, từ con rạch cho đến hòn cù lao, từ tiết trời cho đến dòng nước, Lê Xuân Giác đều nắm trong lòng bàn tay. Độ hai năm trước, Châu Văn Tiếp đánh trận ở Thất Kỳ Giang, Cần Giờ, định dùng hỏa công đốt trại quân Tây Sơn nhưng Lê Xuân Giác can rằng, tháng Giêng gió chướng, lại hay đổi chiều, dùng hỏa công sợ lành ít dữ nhiều. Châu Văn Tiếp không nghe, thúc quân phóng hỏa, đúng lúc gió thổi ngược, thiêu rụi hết cả. Toàn quân tan tác. Châu Văn Tiếp bị trúng đạn, may có Lê Xuân Giác đến cứu mà thoát chết. Từ ấy, Châu Văn Tiếp trọng Giác lắm, chuyện cơ mật gì cũng đem bàn. Lê Xuân Giác cũng là người cương trực, biết ý định mượn quân Xiêm đánh Tây Sơn thì hết sức can ngăn.
– Dù Tây Sơn có làm điều soán đoạt thì chuyện của Chúa thượng với Tây Sơn vẫn là chuyện trong nhà, nay ta mượn người Xiêm sang đánh, dẫu có được thì cũng mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà” đến muôn đời, chưa kể bọn Xiêm với ta khác dòng khác máu, tất sẽ nảy sinh chuyện bạo ngược với dân lành…
Châu Văn Tiếp cũng đắn đo, nhưng thế cùng lực kiệt, đành cắn răng chịu tiếng rước giặc vào nhà. Lê Xuân Giác can mãi. Nói rằng không thể vì ngai vàng của một dòng họ mà nhắm mắt nhìn bọn ngoại tộc giày xéo quê hương, tàn hại đồng bào. Châu Văn Tiếp giận lắm, nhưng nghĩ đến ơn nghĩa năm xưa đành nghiến răng bỏ đi.
Dòng hồi ức chạy dài trong tâm trí bị tiếng vó ngựa làm đứt đoạn. Người lính vội vã cáo cấp, Châu Văn Tiếp bị quân Tây Sơn đâm chết ở sông Măng Thít. Lê Xuân Giác rụng rời. Lảo đảo mấy bước.
5.
Nguyễn Ánh nghe tin, thương khóc cả đêm. “Trong vòng mười năm lại đây, Tiếp với ta cùng chung hoạn nạn. Nay giữa đường Tiếp bỏ ta mà đi…”.
Nguyễn vương còn một điều lo lắng. Châu Văn Tiếp là người kết nối với quân Xiêm, nay mất Tiếp rồi, lấy ai chế ngự chúng. Từ khi đặt chân đến nước ta, quân Xiêm đi đến đâu là cướp của, giết người, hãm hiếp đàn bà, con gái, rồi lại thi nhau chở thóc gạo về nước khiến cho dân chúng lầm than, lòng người oán giận, Nguyễn Ánh dẫu bất bình nhưng không can thiệp được.
Trời vừa sáng, doanh trại quân Nguyễn đã một phen náo động. Một tên phó tướng quân Xiêm dẫn theo toán lính hùng hổ đến trại. Nguyên là vì hôm trước, có mấy tên lính Xiêm vào làng cướp bóc. Viên cai đội quân Nguyễn trong lúc đi tuần phát hiện, căm giận không kiềm chế được mà chém chết ba tên, còn lại thoát được. Trong bọn bị chém, có em trai của tên phó tướng. Hắn bèn tập hợp quân Xiêm đến trại của Nguyễn Ánh đòi người.
– Chiêu Nam Cốc(2)! Mau giao người cho chúng tôi! Nợ máu phải trả bằng máu!
Đám lính Xiêm hò hét huyên náo. Nguyễn Ánh đích thân ra mặt hòa giải nhưng chúng không nghe, đành muối mặt vào trong họp bàn.
– Bọn Xiêm thật là ngang ngược! Chúng cậy vua Xiêm giúp ta mượn quân đánh Tây Sơn nên không coi ta ra chi cả. Lại còn mặc sức cướp bóc, giết hại dân ta, khiến lòng dân oán thán, ta e đại sự nguy mất.
Nguyễn Ánh thở dài.
Lê Xuân Giác bèn hiến kế:
– Tâu Chúa thượng! Quân Xiêm tàn ác với dân ta, ai cũng thấy rõ. Nhưng ta với chúng hiện vẫn là đồng minh. Nếu giao viên cai đội cho chúng, sợ lòng quân sẽ thêm bất mãn mà rối loạn. Ta nên cho người đến trại của các tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương đề nghị ra mặt hòa giải may ra mới yên được. Tôi thông thạo tiếng Xiêm, xin lãnh việc này.
Nguyễn Ánh mừng lắm, thuận theo ngay. Lê Xuân Giác vội đến trại của tướng Xiêm nhưng lính gác không cho vào, bảo rằng hôm qua hai tướng uống rượu say đến giờ chưa dậy. Lê Xuân Giác lòng như lửa đốt, cố kèo nài thì bị đuổi ra. Hơn một canh giờ, Chiêu Tăng và Chiêu Sương mới tỉnh dậy, vội vã đến trại Nguyễn Ánh nhưng đã muộn. Người cai đội không muốn liên lụy đến chủ tướng nên đã rút gươm tự sát trước mặt bọn lính Xiêm. Chiêu Tăng cho phạt đòn viên phó tướng và những kẻ hùa theo, rồi đem vàng bạc coi như hậu sự cho viên cai đội. Nguyễn Ánh chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, quân Nguyễn với quân Xiêm từ ấy bằng mặt chẳng bằng lòng.
Lê Xuân Giác đứng lặng rất lâu trước mộ của viên cai đội. Cảm thương cho người trung nghĩa.
Gió chướng thổi.
Tê tái.
Đêm ấy, Lê Xuân Giác không từ mà biệt.
6.
Nguyễn Huệ trở về khi toàn thân ướt đẫm. Khuôn ngực vạm vỡ đầy những vết sẹo hiện ra dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ. Năm ấy, Nguyễn Huệ ba mươi mốt tuổi. Độ tuổi sung mãn nhất của đời người. Kể từ khi Tây Sơn dấy nghĩa, Huệ nhớ rất rõ từng vết sẹo trên người. Nó là chứng tích của những lần giao chiến ác liệt với quân Trịnh, quân Nguyễn, đám hải tặc hay lũ giặc cướp. Lần nào cũng vậy, kẻ thù chỉ kịp để lại dấu ấn trên da thịt của Huệ rồi làm ma không đầu dưới thanh long đao nặng cả ngàn cân. Một dải chiến trường từ Phú Xuân vào đến Gia Định, không nơi nào vắng chiến kỳ của Huệ. Cũng đã có lúc, Nguyễn Huệ tự hỏi mình, phải đánh dẹp đến bao giờ? Nhưng thế sự tranh đấu cứ cuốn Huệ đi mãi.
Thanh long đao của Huệ cắm xuống đất Tiền Giang, trận đại chiến chỉ còn tính bằng ngày. Chuyến do thám hôm nay mang về nhiều kết quả. Đã lâu rồi, Nguyễn Huệ không lặn lâu dưới nước như vậy. Nhóm quân trinh sát đi cùng ai nấy đều cường tráng lại thông thạo sông nước, vậy mà khi lên bờ cũng phải thở dốc. Con nước trên khúc sông Mỹ Tho, đặc biệt từ Rạch Gầm đến Xoài Mút quả là khó lường. Đang nhẹ nhàng êm ả thì đột ngột chảy xiết, lúc xuôi dòng bỗng chảy ngược khi gió chướng ập đến. Người bơi trên sông nếu không am hiểu con nước để phân phối sức dễ bị đuối nước như chơi. Lại thêm các cồn bãi, cù lao chia cắt khúc sông ra thành nhiều đoạn. Lùm bãi thì um tùm, rậm rạp, rất thích hợp để đặt phục binh.
Phải rồi! Chiến địa quyết đấu là đây chứ đâu.
Nguyễn Huệ khoan khoái ngả mình trên bãi cỏ, mùi hoa bần thơm thoang thoảng trong gió. Khi vừa đặt chân đến Tiền Giang, Nguyễn Huệ đã bắt tay vào việc thám thính tình hình, cắt đặt binh tướng, không khi nào ngơi nghỉ. Mãi đến hôm nay, Huệ mới được chợp mắt một chút, lòng nhẹ tanh mà ngáy khò khò.
Cơn gió rát thổi qua khiến vị nguyên soái tỉnh lại.
Phải rồi.
Gió chướng. Con nước.
Thành bại nằm hết ở đó.
7.
Đêm 19 rạng ngày 20, tháng 01 năm 1785.
Tiếng đại bác ầm ầm xé toạc trời đêm. Quân Xiêm chia làm hai đạo, quân bộ do Lục Côn chỉ huy men theo tả ngạn sông Tiền, quân thủy cho Chiêu Tăng chỉ huy, Chiêu Sương làm tiên phong dẫn hàng trăm chiến thuyền tiến về Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh quân Tây Sơn. Lợi dụng con nước đang xuôi, hai đạo quân Xiêm hợp binh tấn công vào phòng tuyến Tây Sơn. Nguyễn Ánh cho quân lui về tuyến sau, thận trọng dò xét phòng khi bất trắc.
Đại bác quân Xiêm trút đạn như mưa. Thuyền quân Tây Sơn bốc cháy dữ dội. Sĩ khí quân giặc bùng lên ngút trời, hăm hở đuổi theo đoàn thuyền Tây Sơn. Chúng có ngờ đâu đó chỉ là những thuyền mục ải, cũ nát được cắm cờ nhằm thu hút hỏa lực. Trên bờ, các cánh quân bộ Tây Sơn vẫn kiên nhẫn theo dõi mọi di chuyển dưới sông. Sau một hồi truy đuổi, tiền quân của địch đã đến cửa sông Xoài Mút và hậu quân đã qua cửa Rạch Gầm.
Nguyễn Huệ thét lớn:
– Toàn quân xung trận!
Lập tức, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, đại bác từ hai bên bờ sông và trên cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, rừng Dừa bắn tấp cập vào khúc giữa đoàn thuyền địch đang bị ùn lại. Những quả đại bác xé toạc ván thuyền, hất tung mọi thứ lên trời. Giữa lúc quân giặc đang hoảng loạn, các đoàn thuyền Tây Sơn từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh đầu. Một đoàn thuyền Tây Sơn khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông và chặn đường rút lui.
– Quân ta bị vây tứ phía rồi! – Chiêu Sương hốt hoảng.
Trái lại, Chiêu Tăng vẫn bình tĩnh chỉ huy chống đỡ:
– Không được loạn! Nước đang xuôi dòng có lợi cho ta. Chúng muốn tiếp cận không phải là dễ. Lệnh cho các pháo thủ ra sức bắn trả. Tướng sĩ còn lại phòng thủ mạn thuyền không cho chúng trèo lên.
Theo lệnh, pháo binh quân Xiêm liên tục nhả đạn, khiến cho một số chiến thuyền Tây Sơn cỡ nhỏ trúng đạn, chìm ngay tại chỗ. Phò mã Trương Văn Đa thúc pháo binh bắn dữ dội hơn để yểm trợ thủy binh tràn lên. Cả khúc sông bừng sáng những chớp lửa chết chóc. Mùi thuốc súng nồng nặc và khét lẹt. Một số thủy binh Tây Sơn nhanh trí nhảy xuống nước, lặn sâu để tránh đạn rồi áp sát thuyền giặc. Móc sắt được quăng lên. Những chiến binh đầu tiên đã trèo lên được mạn thuyền. Gươm giáo hai bên chạm nhau loảng xoảng.
Lúc này, trên soái thuyền, Nguyễn Huệ vẫn theo sát tình hình. Cạnh đó, Lê Xuân Giác lại không để tâm diễn biến giao tranh. Hai mắt Giác nhắm chặt, miệng lẩm bẩm như người mộng mị. Cái ngày Lê Xuân Giác đến trại Tây Sơn, nhiều ánh mắt ngờ vực, nhưng Nguyễn Huệ vẫn thu nạp, cho theo hầu cạnh. Sau khi thị sát nơi chọn làm chiến địa, Nguyễn Huệ biết rằng, Lê Xuân Giác đang nắm giữ chiếc chìa khóa quyết định cho trận đại chiến này.
– Lệnh toàn quân tổng lực tiến lên. Kẻ nào thoái lui, chém chết không tha!
Quân lệnh ban xuống. Quân Tây Sơn liều mạng đánh giết dữ dội, không ai có ý quay đầu. Quân Xiêm như cá nằm trong rọ, phơi mình dưới làn đạn pháo, nhưng lợi thế về quân số cùng các thuyền chiến lớn nên vẫn cầm cự được. Chiêu Tăng lệnh cho quân sĩ bỏ các thuyền bị trúng đạn ở bên ngoài, dồn vào các chiến thuyền bên trong. Nhờ các chiến hạm bên ngoài che chắn, đại bác của Tây Sơn vẫn khó tiếp cận với các thuyền bên trong của giặc. Thế trận giằng co, chưa định rõ thắng bại về ai.
Đúng lúc ấy, lá soái kỳ trên thuyền Nguyễn Huệ bỗng nhiên rủ xuống.
Lê Xuân Giác mở trừng mắt.
“Đây chăng?”.
Lá cờ bắt đầu phấp phới trở lại nhưng theo hướng khác.
“Đúng rồi !”.
– Bẩm nguyên soái! Gió đã đổi chiều. Con nước cũng đã bắt đầu đổi dòng. Thời khắc mà chúng ta chờ đợi đã đến.
Lê Xuân Giác cố nói thật lớn, như muốn át đi tiếng gió vù vù. Nguyễn Huệ gật đầu. Tiếng trống vang lên cũng là lúc đội thuyền nhẹ chở đầy chất dễ cháy như rơm rạ, dầu mù u, dầu rái, dầu dừa, bùi nhùi… ngược dòng sông bắt đầu di chuyển. Nhờ con nước đổi dòng chảy xiết và xuôi theo chiều gió, đoàn hỏa thuyền lao nhanh vun vút, đâm thẳng vào đội thuyền của giặc. Lửa bốc lên ngùn ngụt.
– Cho chúng nếm mùi hỏa hổ, hỏa cầu của Tây Sơn ta!
Tức thì, những khẩu súng hỏa hổ được lệnh châm ngòi, nhựa thông từ nòng súng phun ra dòng lửa nóng đốt cháy mọi thứ cản đường. Những tráng sĩ Tây Sơn với bắp tay cuồn cuộn cũng xoay người quăng mạnh những quả cầu bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh gang, sắt vụn. Những tiếng nổ lớn bao trùm lấy thuyền giặc. Gió thổi mạnh khiến lửa dữ dội lan sang các thuyền, đám quân Xiêm trở thành những bó đuốc sống quằn quại trong lưỡi lửa hung bạo. Cả bãi sông sáng rực, ở xa mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Quân Xiêm tan vỡ, nhảy xuống sông để bơi vào bờ. Đúng lúc ấy, đội tượng binh Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân ùa ra gầm thét, giặc lớp này đến lớp khác bẹp dí dưới những bước chân voi. Cánh quân bộ Xiêm La cũng đã tan vỡ, đầu của tướng giặc Lục Côn bị treo lên cột cờ, vẫn còn rỉ máu. Chiêu Tăng, Chiêu Sương chỉ còn biết bỏ thuyền mà chạy.
Khi những tia nắng đầu tiên rọi xuống sông Tiền Giang cũng là lúc trận đại chiến kết thúc. Sóng ầm ầm cuốn sạch mọi thứ ra biển, rửa sạch huyết thù nhơ nhuốc. Thừa thắng xông lên, quân Tây Sơn đánh thẳng vào căn cứ Trà Tân của giặc. Quân Xiêm binh bại như núi đổ. Năm vạn quân Xiêm La và ba trăm chiến thuyền bị Nguyễn Huệ đánh tan chỉ trong một ngày, đặt dấu chấm hết cho vọng tưởng của Rama I đối với mảnh đất Gia Định trù phú.
Khi con nước hiền hòa trở lại, Lê Xuân Giác lại không từ mà biệt.
8.
Nguyễn Ánh chỉ còn mấy chục người chạy ra bến sông. Mệt nhoài. Kiệt sức. Tiếng vó ngựa ầm ầm phía sau. Ánh thở dài. Buông xuôi. Vừa lúc ấy, một ông lái đò gọi lớn:
– Chúa thượng! Mau lên thuyền! Lão chờ Chúa thượng ở đây đã hai hôm rồi!
Nguyễn Ánh như chết đuối vớ được cọc. Nhưng thuyền nhỏ, chỉ chở được vài người. Đám tướng sĩ đẩy Nguyễn Ánh lên thuyền rồi quay lại chặn quân Tây Sơn truy kích. Nhìn những bề tôi trung thành vì mình liều chết, Nguyễn Ánh rưng rưng, dập đầu ba lạy mà khóc. Khi người cuối cùng ngã xuống, thuyền đã ra khỏi tầm bắn của tên đạn.
– Sao lão biết mà chờ ta ở đây?
– Bẩm, có người cho lão một nén bạc, bảo chờ ở bến sông, nếu đến hôm thứ ba không thấy người tới thì không cần chờ nữa.
– Người đó là ai?
– Bẩm, người ấy che mặt, lão không biết ai cả.
Nguyễn Ánh bần thần, nhìn về xứ sở lần cuối. Bên kia sông, Lê Xuân Giác cũng đã lên ngựa rồi mất hút giữa khói bụi mịt mù.
Gió chướng lại thổi.
Chiến kỳ Tây Sơn.
Phấp phới tung bay!
NGUYỄN ANH TUẤN
(1). Năm 1871, triều đình Cao Miên xảy ra lục đục, tranh giành ngôi báu, phe cầu cứu vua Xiêm, phe cầu cứu Nguyễn Ánh. Vua Xiêm là Taksin cử Rama I khi ấy là tướng Chakri đem quân tiến đánh. Ông chạm trán quân đội của Nguyễn Ánh do các tướng Nguyễn Hữu Thụy và Hà Văn Lân chỉ huy. Khi chuẩn bị giao chiến thì được tin triều đình có biến. Vợ con của Chakri bị vua Xiêm bắt tống giam. Trước tình thế đó, Chakri mời Nguyễn Hữu Thụy đến trại thiết đãi, bày tỏ sự tình rồi đề nghị giảng hòa. Hai bên bẻ mũi tên cùng thề lui binh. Tháng 5 năm 1781, như thỏa thuận, quân Xiêm và quân Nguyễn cùng rời khỏi Cao Miên. Chakri trở về kinh thành Thonburi, dẹp được biến loạn, giết chết vua Taksin, cứu vợ con và giành lấy ngôi báu. Năm 1782, ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Rama I. Mối hữu hảo nhờ việc “bẻ tên làm tín” giữa Rama I với Nguyễn Ánh cũng bắt đầu từ đó.
(2). Vua nước Nam theo cách gọi của người Thái.