Giấc mơ La Vuông

(VNBĐ – Truyện ngắn). Cỏ may phơi phớt trên ngọn đồi La Vuông như ngàn mũi kim khâu vô hình của xứ sở, lặng lẽ thêu những hạt hoa bé nhỏ lên chân người qua. Cỏ muốn rời khỏi La Vuông bay đến những ngọn đồi ngút ngàn khác hay cỏ muốn giữ lại một dấu vết hơi người cũng không rõ, chỉ biết rằng ai đến La Vuông cũng hứa hẹn sẽ trở lại. Và rồi La Vuông đợi mãi, ôm một nỗi nhớ xanh ngằn ngặt núi rừng, ôm nỗi cô đơn của từng gốc cây, tảng đá chôn vùi trong màn mây thinh lặng.

Chiều chiều, khi đang ngồi trên tảng đá cùng đàn bò của mình, Tư Lâm chợt lao xuống chạy băng băng trên đồng cỏ như một con thú hoang, muốn chạy khỏi vùng đất này rồi anh nhận ra mình không bao giờ rời khỏi đây được nữa. Có con bò ngẩng mặt lên nhìn anh rồi lại cúi mặt xuống gặm cỏ, tựa như một cái nhún vai, nó đã quá quen với người chủ thích vùng chạy trong mây của nó. Anh nằm vật ra cỏ, sau khi chạy mệt nhoài, mặc cho cỏ đá len lỏi châm vào da thịt nhoi nhói, vị cỏ mặn mặn như vị máu trên lưỡi. Anh nhấm nháp vị của cuộc đời mình, vị của mảnh đất La Vuông. Cỏ may âm thầm khâu vào quần áo anh thật nhiều mũi chỉ nâu, dán chặt anh với đất.

Nơi này, mỗi hòn đá, mỗi cái cây cổ thụ đều đứng một mình, cách xa nhau. Hồ nước im lìm không cựa sóng. Tượng Quan Âm Bồ tát trắng xóa đặt giữa cao nguyên như lạc loài vì không có ai cầu nguyện. Không có mái chùa che, không người hương viếng. Bồ tát đứng như tảng đá mỉm cười với thinh không. Tư Lâm không viếng Phật, anh không có tình yêu và không có đức tin.

Chiều nay trời mưa, mây đùn lên trắng xóa che lấp các đỉnh núi trong màn sương mù hư ảo. Những con bò tự về chuồng của mình còn anh lang thang vào rừng bắt ngóe. Trăng chìm lấp trong ngàn lớp mây, ánh sáng chỉ còn thở yếu ớt trên những bóng cây đen lặng im như những khối sắt. Tiếng côn trùng rền rĩ, hơi cây cỏ tanh nồng. Những dãy núi nhấp nhô tựa con rồng khổng lồ đang say giấc, phì phò thở hơi đá lạnh. Bốn bề chuyển động khẽ khàng như lật cao nguyên sang trang huyền thoại. Chợt anh nghe tiếng nước rơi róc rách, như có bàn tay nhúng nước vớt lên những giọt rồi thả xuống.

Anh lần theo con suối, đá khá trơn, mây đã vén hẳn một khoảng rộng để trăng thả bóng mình xuống suối. Anh thấy một thiếu nữ vận yếm trắng, buộc hờ hững trên cổ. Mái tóc đen và cánh tay nàng mềm mại thả xuống dòng suối vớt ánh trăng. Đôi vai nhỏ nhắn và rãnh lưng chảy mềm mại giữa chiếc eo thon, váy nâu thả ướt theo làn nước. Anh không tin vào mắt mình, ở giữa núi sao lại có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi một mình. Có một lực hút vô hình kéo anh gần lại chỗ nàng, càng lúc trái tim càng nhảy nhót không ngừng, vừa hồi hộp vừa tò mò, tuyệt nhiên không sợ hãi.

– Này cô ơi, làm gì ở đây thế?

Nàng ngẩng mặt lên, đôi mắt đen sâu vời vợi ngân ngấn nước, ánh nhìn buồn bã làm trái tim như chùng lại. Đường chân mày cong chạy xuống cánh mũi một đường thẳng vừa thanh thoát vừa mỏng manh. Đôi má tròn trịa ướt đẫm nước mắt, bóng cây cối nhập nhòa rung rinh làm gương mặt nhạt nhòa, ẩn hiện. Anh đứng chết lặng, người anh như đông cứng, lạnh buốt. Cuộc đời anh chưa từng gặp điều gì đẹp như thế. Nàng cúi mặt, ánh sáng đậu trên rèm mi cong khép lại, lăn xuống má một giọt nước, và một giọt nữa…

– Em đang chờ một người!

Rồi nàng đứng dậy, dò dẫm theo bờ suối, vịn từng vách đá bước đi, bóng dáng mỏng manh, yếu đuối, bơ vơ khuất dần giữa núi rừng hoang lạnh. Một con chim đập đập cánh làm rơi vài nhánh khô răng rắc. Anh không thấy nàng đâu nữa.

Minh họa: Lê Trọng Nghĩa

Hồi nhỏ, khi mẹ dẫn anh đi ngang con suối, bà kể xưa kia, thuở còn loạn lạc binh đao giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, nhà Nguyễn thất trận đã lẩn trốn tại vùng núi này. Có một thiếu nữ dòng tộc quyền quý đem lòng yêu một anh lính và đêm đêm họ thường hẹn hò bên bờ suối ấy. Nàng sẵn sàng trút bỏ thân phận cao quý của mình để ở lại mãi cao nguyên này cùng anh nhưng anh đã không thể từ bỏ thân phận thấp kém của mình. Anh muốn lập chiến công, được phong chức tước để xứng đáng với nàng. Anh chia tay nàng ra đi còn nàng sợ khi mình rời đi, người yêu quay về không tìm thấy nên ở lại. Và rồi đợi mãi không thấy người yêu trở lại, nàng nghĩ anh đã chết nên quyên sinh nơi con suối này. Người dân thương nàng đặt tên là suối Cô Tiên vì nàng xinh đẹp tựa tiên nữ và trái tim của nàng sắt son hơn đá.

Cao nguyên La Vuông buổi chiều rất buồn, chàng chăn bò Tư Lâm cứ nằm xoãi trên bãi cỏ để ngắm bầu trời, như kiếm tìm, như chờ đợi nhưng không biết đang đợi điều gì. Anh nhận ra, không có điều gì để đợi còn buồn bã hơn. Nhiều năm trôi qua, đôi mắt của anh trở nên mờ đục, lòng mắt xanh phủ một lớp màn trắng trắng y hệt lớp mây phủ trên bầu trời. Anh vẫn nhìn thấy tất cả nhưng không thấy tương lai mình.

Chiếc xe ô tô trắng toát ì ạch xé màn mây âm u tiến vào cao nguyên. Nó khó nhọc leo lên ngọn núi cao sừng sững, chênh vênh trên những mép đường lầy lội và dừng lại nơi vực núi, đỉnh cao nhất của cao nguyên. Những con người từ trong xe túa ra, rộn ràng vui sướng hít hà bầu khí quyển trong veo mát lạnh. Họ ríu rít làm dáng, xoay ngiêng uốn éo chụp hình với dáng núi uốn lượn và màn sương trắng xóa sau lưng. Rồi họ tất bật mang lều trại ra cắm, họ chuẩn bị rất đầy đủ đồ ăn thức uống, bia và cả bếp để nướng thịt. Đêm ngủ và cả ghế ngồi ngắm cảnh, họ mang cả một đời sống hiện đại thu nhỏ đến đặt giữa mảnh đất hoang vu. Ánh lửa bếp ga nhỏ xíu mà tạo nên quầng sáng kỳ lạ đẩy anh ra khỏi đó. Không ai nhìn thấy Tư Lâm dù anh chỉ đứng cách họ mấy chục bước chân. Nhưng ai cũng trông thấy đàn bò của anh, họ chụp ảnh đàn bò rất nhiều.

Anh muốn đến gần chỗ họ lắm, nhưng có gì đó níu chân anh lại, phải rồi, đó chính là cỏ may.

Chợt từ trong chiếc xe trắng ấy, một cô gái nữa bước ra. Nàng vận chiếc váy trắng, vai trần và mái tóc đen buông dài xuống lưng, bóng dáng của nàng cho anh cảm giác quen thuộc đến khó tả. Anh ngắm nàng say sưa. Nàng cũng đang say sưa ngắm núi, toàn bộ thung lũng thu nhỏ như một lòng bàn tay chằng chịt đường chỉ. Giữa có một cái hồ tròn như con mắt mở thao thức, mấy vạt đất nâu phơi ra tựa như cao nguyên bị cạo mất một lớp da xanh. Hay trong lòng nàng cũng khuyết mất một điều gì mà đến dáng đứng cũng buồn rầu quá đỗi.

Nàng không biết chính thời khắc đó, nàng đã ở lại mãi trong một đôi mắt có màu mây trắng.

Đoàn người cắm trại đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng nhưng dường như vẫn thiếu. Thiếu lửa. Về đêm, không gian tăm tối quá sức tĩnh lặng làm khoảng cách những con người như giãn dần ra, không còn chút hào hứng. Anh lặng lẽ mang tới những khúc củi lớn, xếp lại thành hình tháp cao ngang một con người, quẹt một que diêm quăng vào giữa. Tháp củi như mở mắt, đóm lửa nhanh nhẹn bắt lấy từng que củi nhỏ, len lỏi từng khúc củi lớn, chẳng mấy chốc, tháp củi khô như khoác lên chiếc áo choàng đỏ lộng lẫy, phừng phừng, tro than bùng cháy. Không gian bừng sáng, đoàn người bật dậy, nhìn qua đống lửa, thấy một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, cánh tay chắc như một nhánh cây dang rựa bửa củi dựng thêm vào đống lửa. Và ngọn lửa đã kéo những con người gần lại bên anh, bên núi rừng. Lúc ấy, anh đẹp trơ trọi và mạnh mẽ tựa như vị thần trong không gian tiền sử.

Và hình ảnh ấy thắp lên đôi mắt buồn bã hun hút của nàng. Sa Ly tiến gần lại đống lửa, nhẹ nhàng ngồi xuống. Sau khi chẻ xong đống củi, anh cũng phủi tay, lấy một khúc củi khác để gần gần bên nàng, xếp hai chân ngồi xuống. Hai bàn tay vừa khỏe như thế bây giờ bỗng trở nên yếu đuối và thừa thãi, cứ nắm qua nắm lại. Trên miệng còn luống cuống hơn, rất muốn nói một điều gì đó nhưng không sao mở lời được.

– Ngọn lửa đẹp quá! Sa Ly cất tiếng, mắt nàng long lanh.

Anh vui quá vì đống lửa do anh đốt và nàng đã thích, nhưng anh không biết nói điều gì. Hương thơm tinh khiết từ người nàng dìu dịu làm anh càng thêm bối rối.

– Anh sống ở đây với ai? Sa Ly lại mở lời trước.

– À… một mình, anh… anh… chỉ có một mình. Mười… mười… năm rồi.

– Nhà của anh ở đâu? Anh đưa tay chỉ về hướng tối om có những bóng cây như cái mền đen bao phủ.

– Nhà của ông chủ… anh… anh… không có nhà. Ngày trước, anh… ở tù. Ra… ra tù thì anh ở đây. Giọng nói anh khàn khàn và mắc chứng nói lắp.

– Sao anh lại ở tù?

– Vì tội… buôn… buôn… lậu, phá… rừng.

Sa Ly ngạc nhiên, quay lại nhìn người đàn ông bên cạnh. Anh sống ở núi rừng, vẫn còn đậm nét cây cối trên dáng hình anh đấy mà anh lại có thể phá rừng sao. Anh cúi gằm mặt xuống đất không dám nhìn nàng, một nỗi buồn nhấn chìm anh trong bóng tối, ngọn lửa bên cạnh bỗng sáng mà tự nhiên vụt tắt, đẩy anh ra xa nàng hơn.

Sa Ly thấy đôi mắt anh phủ mây mờ, anh hiền quá đỗi. Khi nàng đứng dậy, vì không mang dép nên bị gai đâm, anh vội vàng đưa đôi dép nhựa cũ của anh cho nàng xỏ. Anh để ý thấy cổ chân nàng có vết cào vì gai buồn ngủ, anh vội vàng bứt vài đọt lá gì đó nhai ngấu nghiến rồi thoa lên.

Chợt nàng nhớ ra, người nàng yêu mười năm trời chưa bao giờ để ý đến đôi chân của nàng. Anh moi từ trong đống lửa ra một trái bắp, vỏ cháy đen thui, anh lăn lóc bóc vỏ rồi thổi nguội, đưa cho nàng. Bắp nướng thanh ngọt, dẻo và rất thơm, nàng bẻ đôi đưa anh nửa trái, anh gãi đầu cầm lấy. Sa Ly không tin chàng trai dễ thương như thế có thể tàn phá một điều gì.

Chợt anh chìa bàn tay run run ra trước mặt nàng.

– Em… em… cho anh… xin số… điện thoại.

Nàng mỉm cười, lấy từ trong túi ra một chiếc bút, cầm tay anh, ghi nắn nót những con số của mình. Anh vui sướng gập bàn tay lại cất giữ như vừa nhặt được một viên ngọc quý. Lòng anh mừng vui như những đóm lửa đang nhảy nhót. Anh hỏi nàng sống ở đâu, nàng bảo mình đến từ phố biển. Hình ảnh đại dương mênh mông và một thành phố đông nghịt người chợt hiện ra trong đầu, đó là một nơi quá xa lạ với anh. Anh xiết chặt bàn tay đang cầm những con số nhỏ.

– Em… em rất giống… một người… anh… từng biết. Anh cố gắng nói rõ từng tiếng.

– Ai cơ? Nàng tròn xoe đôi mắt nhìn anh. Nhưng anh không biết phải trả lời ra sao cho nàng hiểu.

– Một… cô gái… anh… anh… gặp trong mơ. Nàng… sống ở… bên một… con suối. Sa Ly khẽ cười, nụ cười thật duyên dáng, đáng yêu làm anh ngượng nghịu.

Nàng nghĩ anh cũng miệng lưỡi ghê cơ. Mọi người đang hát hò vỗ tay vui vẻ trong ánh lửa, những con người như gần nhau hơn, quên hết muộn phiền. Chỉ có hai người cứ ngồi im bên đống lửa, nàng mong manh váy trắng, anh cao lớn áo vải nâu bạc màu.

Mờ sáng hôm sau, chiếc xe trắng toát ì ạch chạy ngang qua nhà anh và biến mất trong sương mù.

Nàng đi rồi, lòng anh bỗng toang hoác và nguội ngắt như đống tro đen ướt đẫm trên đỉnh đồi.

Một buổi chiều, khi đang lang thang qua nơi nàng đứng vào chiều hôm ấy, anh bỗng phát hiện một mảnh khăn rơi xuống vách núi, vướng vào đám cây mâm xôi. Kìa, đúng là chiếc khăn choàng trắng có hoa văn đỏ của nàng đánh rơi rồi. Anh sung sướng như vừa tìm được kho báu, khéo léo trèo xuống vách núi, nhặt chiếc khăn lên. Nó đã sờn và rách vì gai vậy mà đám cỏ may vẫn còn bám chặt. Dường như chúng cũng thương nhớ nàng mà ôm khư khư mãi một kết nối mong manh. Anh nhớ lại những con số nhỏ của nàng trên bàn tay anh đã chép lại trên tường.

Đêm ấy, anh vào rừng để từ biệt nàng thiếu nữ bên suối Cô Tiên. Ngắm bóng hình nhạt nhòa lặng lẽ vớt giọt trăng dưới suối, anh tự hỏi đến bao giờ nàng mới rời khỏi nơi đây. Trời lờ mờ sáng, anh đã mang trên mình một chiếc ba lô, bên trong có mảnh khăn choàng của nàng. Nhét vào túi mảnh giấy nhỏ có số điện thoại và đi bộ xuống núi.

Đang đứng thuyết giảng một học phần về sử thi của dân tộc thiểu số, âm hưởng núi rừng tràn ngập trong đầu nàng. Bỗng Sa Ly nhận được một cuộc gọi số lạ. Bắt máy lên không nghe nói gì cả, nàng tắt máy. Một lát sau lại gọi, nàng alo đến 3 lần mới nghe đầu dây bên kia lắp bắp: Anh… anh đây! Cao nguyên La Vuông! Có… có… cái này anh… anh… muốn trả lại… Nàng sững sờ, là người con trai đã mang dép cho mình trên đỉnh núi. Tim nàng bỗng đập rộn ràng.

Hôm ấy nàng vừa mới chia tay người yêu, người ấy đã bay sang một đất nước khác để thực hiện ước mơ của mình. Nàng không phải là điểm đến của cuộc đời anh ấy. Tình yêu mười năm của nàng đã bay vào bầu trời không còn dấu vết. Trên đỉnh núi, nàng chạm mây, có đám mây nào đã từng chạm vào máy bay của anh không. Anh với nàng đã thực sự không còn một kết nối nào nữa. Sao nàng phải đợi chờ một người đã bỏ mình đi mãi, dù anh có trở lại, có còn ý nghĩa gì nữa không. Nàng thả rơi chiếc khăn choàng anh tặng, như thả xuống vực một mối tình. Giọt nước mắt chảy dài theo làn mi khép… Ngọn lửa và sự dễ thương của chàng trai La Vuông đã làm nàng ấm áp biết bao nhiêu.

Nàng đáp khẽ: “Anh tới sân giảng đường đại học!”.

Anh đứng giữa sân trường đầy gạch và bê tông như một người mộng du, trên vai đeo chiếc ba lô xanh màu lính, chiếc áo thun cũ kỹ và khoác áo sơ mi bạc màu, quần xà lỏn, đôi dép nhựa đỏ vì màu đất cao nguyên. Anh ngơ ngác ngó vào các lớp học để tìm nàng, một cậu sinh viên va vào anh ngã nhào ra đất. Chợt anh trông thấy nàng đang đứng trên giảng đường, tay cầm míc giảng bài. Nàng trí thức, lộng lẫy, cao quý. Anh nhìn lại mình, thô kệch, quê mùa quá. Nàng là công chúa trong cung điện còn anh là tên lính ngoài chiến trường trong câu chuyện huyền sử, nàng là mây trên đỉnh núi còn anh là đất đỏ trên cao nguyên. Cầm chiếc khăn mềm mà bỗng thấy bàn tay mình đau nhói. Kết thúc giờ dạy, nàng chạy ra sân trường, tìm mãi không thấy anh đâu, chỉ thấy bên gốc cây có một chiếc khăn mà nàng đã vứt trên đỉnh núi.

Người đàn ông quản lý công trường nhìn anh từ đầu đến chân dò xét, ông ta nheo mắt, bặm môi và rồi chậc lưỡi. Buôn lậu à, căng đấy! Anh vội vã gồng hai cánh tay rắn chắc ý nói anh rất khỏe, phụ hồ hay làm gì cũng được. Nhưng ông chủ quay mặt đi không nói gì nữa, bỏ anh đứng ngơ ngác một mình giữa trời nắng chang chang. Anh nghe tiếng xì xào bên tai:

– Buôn lậu chắc ăn cắp dữ lắm, lỡ mai mốt chở hết sắt của công trường đi bán…

– Ờ, lỡ mất gì lại đổ thừa cho mình… Anh lặng lẽ bỏ đi. Anh đi khắp các công trường ở thành phố, ai cũng nhìn anh đầy dò xét rồi bỏ anh đứng ngoài nắng.

Hình như có ai đó gọi anh lại nhưng anh không nghe. Từ lâu anh cũng không còn nhớ tên mình. Lang thang khắp nơi trong phố, giữa khói bụi và nhà cửa san sát, bụi bặm làm anh ngột ngạt, nắng gắt làm đôi chân phồng rộp. Anh ra biển ngồi, hơi biển mặn rít làm anh nhớ hơi mây tinh khiết của núi. Nơi này không dành cho anh, ở chốn đông đảo con người sao anh lại cô độc hơn bao giờ hết.

Thấy anh trở về, đàn bò nhìn anh buồn bã, kêu lên mấy tiếng ồm oàm như báo cho núi rừng hay tin. Đời anh chẳng còn làm bạn với ai nữa ngoài đàn bò, chẳng ai nhận ra sự tồn tại của anh ngoài chúng.

Nhưng lòng anh buồn quá, không còn là chàng trai Tư Lâm vô tư lự ngày nào. Anh nằm ườn trên tảng đá uống rượu từ sáng đến tối, đôi mắt xanh chuyển sang đỏ ngầu. Anh không muốn làm kiếp bò, sống không còn yêu thương, không đợi chờ gì nữa. Nhưng anh phải làm sao đây?

Đêm, anh mang chai rượu ra suối Cô Tiên, uống cạn, ném vỏ chai thừa thãi cho dòng nước mang đi.

Anh cất tiếng gọi nàng. Kia rồi, cô Tiên ấy đang đứng cách anh vài sải tay, chiếc yếm trắng che hững hờ đôi ngực tròn mọng, gương mặt nàng tươi sáng như ánh trăng, đôi môi mỉm cười với anh. Nàng vén váy cho khỏi ướt, lộ đôi chân trắng ngà, tóc đen dài xõa tận đáy lưng. Dưới trăng, nàng như dòng mật sánh mịn, không còn buồn bã, than khóc.

Tới gần, nàng cúi xuống nhìn anh đắm đuối thương yêu. Anh mở to mắt ngạc nhiên, nàng giống Sa Ly quá, mắt môi và cả đôi vai xuôi nhỏ nhắn. Anh dụi mắt lần nữa. Em là Sa Ly ư! Em lên đây với anh ư? Nàng khẽ cười, đúng là nụ cười đẹp của Sa Ly rồi. Anh ôm nàng vào lòng, hôn lên mái tóc thơm mùi cỏ cây. Đôi môi có mùi rêu đá, da thịt nàng lạnh mát như tảng đá dưới suối.

Nàng tròn trịa và ngọt ngào quá đỗi… Nhưng bỗng nàng đứng dậy, ánh mắt như có lửa.

– Em không đợi nữa. Quanh nàng hàng ngàn đom đóm bao quanh, thân thể nàng sáng lên như có lửa, từng con đóm đóm xuyên qua thân thể nàng, nàng dần dần tan đi như mảnh giấy bị đốt cháy, lũ đom đóm biến mất. Trước mặt anh chỉ còn dòng suối róc rách, còn ánh trăng lửng lờ trên mây, bốn bề bặt im nhưng chưa từng xảy ra điều gì. Anh ngồi chết lặng, bất động tựa như tảng đá bên suối.

Sau đó, đêm trăng nào anh cũng ra suối nhưng không bao giờ thấy hình bóng nàng thêm một lần nào nữa. Cao nguyên này chỉ còn mỗi anh ở lại. Anh đi bươn qua suối, trèo qua đá, dẫm lên từng lớp lá khô, dáng xiêu vẹo ngã nghiêng bới cào bóng núi, bóng trăng tìm nàng. Cây lá rỉ sương như nhỏ từng giọt nước mắt mặn chát của núi. Những đám mây trắng bao quanh ngọn đồi có thấy bóng anh không…

Rất lâu sau đó, nàng theo đoàn thực tế sáng tác quay lại cao nguyên La Vuông để viết bài quảng bá du lịch. Cao nguyên vẫn hoang sơ và cây cối vẫn trơ trọi, im lìm. Đàn bò gặm cỏ thong thả bên kia đồi nhưng không thấy chàng trai ấy đâu nữa. Người chăn bò xa lạ không biết Tư Lâm là ai. Chỉ cỏ may là biết anh nơi nào, những bông cỏ may âm thầm đan vào vạt váy nàng những ký ức.

MY TIÊN

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Nhà thơ Trần Kim Hoa

Kể từ tập thơ đầu tiên “Nơi em về” đến nay, nhà thơ Trần Kim Hoa đã có hơn 30 năm nặng nợ với thơ. Thơ chị neo vào lòng người đọc bởi những chiêm nghiệm, trăn trở đầy xúc cảm…

Thơ dự thi của Huỳnh Minh Tâm

Nhiều đêm ròng, tôi thao thức
Ai thêu dệt vẻ đẹp của đời sống?
Ánh trăng trải thảm vàng trên cánh đồng lúa
Hay đồng lúa đã dâng hiến tình yêu cho ánh trăng trú xứ?

Thơ dự thi của Trần Kế Hoàn

Sóng cúi đầu, biển dâng một tuần hương
Đảo chắp tay trước Quốc Công Tiết Chế
Ngọn bút sắc khảm vào đáy biển
đợi hịch truyền Tổ quốc lại bay lên.

Thơ dự thi của Nguyễn Tấn On

Nhiều khi núi đứng lặng thinh
Một chiếc lá rớt – giật mình – nhớ quê
Rưng rưng lỗi hẹn cuộc về
Thương từng vạt cỏ, bờ đê sông gầy.